Pages

Thursday, March 11, 2010

Một Ngày ở Nursing Home


Thương Những Bà Mẹ ở Nursing Home

Thích Tâm Không

"Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể
Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày..."
-  Thương con từ thủa mang thai
Chín tháng mười ngày mang nặng để đau,
Ra đời bú mớm nâng niu
Cho con tất cả máu hồng sữa tươi,
Con vui cha mẹ tươi cười
Con đau cha mẹ rã rời ruột gan,
Trải bao đau khổ gian nan
Khó nghèo chịu đựng chẳng phàn nàn chi,
Mẹ cha rất mực từ bi
Hy sinh tất cả chỉ vì đời con,
Mong cho con được lớn khôn,
Gia đình sự nghiệp thành hôn vẹn toàn,
Tuổi già sức yếu hơi tàn
Ốm đau bịnh tật mẹ càng cô đơn,
Âm thầm trong nursing home
Tháng ngày lặng lẽ tình thương hao mòn,
Cho dù gác tía lầu son
Bác sĩ, y tá, thuốc men đủ đầy...
Nhưng thân xác mẹ hao gầy
Nhưng tâm hồn mẹ đọa đày xót xa,
Nơi đây chẳng phải là nhà
Là nơi êm ấm vào ra thân tình,
Nơi đây thui thủi một mình
Tủi thân xót dạ một mình mình hay,
Văn minh hay xứ đọa đày !
Mẹ cha già yếu lạc loài vào đây,
Trông đêm rồi lại mong ngày
Sức tàn hơi mãn xuôi tay ngậm hờn,
Cảnh xưa nghèo khó còn hơn
Tuổi già còn có cháu con bên mình,
Ra đi an phận tử sinh


Một Ngày ở Nursing Home

Sau ba tháng du lịch ở Mỹ về, những người quen hỏi tôi điều gì làm tôi tâm đắc nhất. Không chút do dự hay suy nghỉ, tôi trả lời:
đó là cái Nursing Home.

Họ ngạc nhiên khi thấy tôi không đề cập đến những địa danh nổi tiếng: như Las vegas, Hollywood, Disney-land, những tòa nhà chọc trời cao nhất thế giới hoặc những cái Mall rộng lớn đi cả ngày chưa hết, những viện bảo tàng, những đại lộ thênh thang, chồng chéo lên nhau như những sợi mì....

Tôi đã hưởng một chuỗi ngày dài thật tuyệt vời,với biết bao điều mới lạ, hiện đại, tối tân mà từ truớc đến giờ tôi chưa hình dung hay tưởng tuợng ra nỗi.

Thế mà khi trở về Việt Nam, tâm trí tôi chỉ còn lắng đọng một điều làm tôi ưu tu, trăn trở, ray rứt: cái Nursing Home mà mẹ chồng tôi đang sống.

Chặng cuối cùng của chuyến du lịch, chúng tôi đã ở Los Angeles mười lăm ngày để thăm viếng mẹ chồng. Hằng ngày, chúng tôi phải chuyển hai chuyến xe bus, Garden Grove,Westminster, Bolsa và bao nhiêu đại lộ nữa mà tôi không nhớ hết tên, đưa chúng tôi gần trạm cuối cùng của lộ trình.

Chúng tôi phải đi bộ khoảng năm trăm mét để đến khu dưỡng lão của một tổ chức tư nhân. Đó là một khoảng đất rộng, nằm khuất sau đại lộ Hungtington hai con đuờng, cách bờ biển Hungtington chưa tới hai cây số. Một nơi yên tĩnh,vắng vẻ,với hai hàng cây sồi đưa vào cái ngõ cụt.

Gồm ba dãy nhà trệt, ghép thành hình chữ U, nó êm dịu với
những cánh cửa sơn màu xanh da trời, nổi bật màu sơn trắng của những bức tường, với những khung kính to trong suốt, lịch sự và trang nhã, bằng những tấm màn voan trắng che rủ. Những khóm hoa hồng, cẩm tú cầu đuợc trồng một cách mỹ thuật trước hàng hiên, dưới cửa sổ, tạo cảm giác vui tươi, hưng phấn khi ngồi trên bộ bàn ghế để phơi nắng hoặc hóng mát duới tàng cây.

Khi vợ chồng tôi đến nơi, kim đồng hồ của phòng trực chỉ 8 giờ 30 phút, bác sĩ và y tá đang đi từng phòng kiểm tra sức khoẻ cho các cụ già. Mẹ chồng tôi tươm tất, sạch sẽ trong bộ quần áo mới thay, nét mặt tươi tỉnh. Họ đã làm vệ sinh cá nhân cho bà từ sáng sớm, truớc khi dùng điểm tâm. Mâm thức ăn sáng chưa dọn, còn để trên bàn. Cô y tá người Việt vào kiểm tra huyết áp, đo lượng đường trong máu, rồi rót nuớc, bỏ thuốc vào miệng bà, ân cần thăm hỏi.

Mẹ chồng tôi không còn nhiều trí nhớ để trò chuyện. Bà hờ hững trả lời những câu hỏi không chính xác, mạch lạc. Những ngày đằng đẳng ở đây đã làm bà trở nên câm lặng. Trái ngược với thuở sinh thời, bà nổi tiếng là người nói nhiều. Ánh mắt vô hồn, lúc nào cũng nhìn lên trần nhà và tách biệt với cảnh vật chung quanh.

Thời gian đầu cách đây mười bảy năm, cô em chồng đã bảo lãnh bà sang Mỹ. Bà đã sống một mình trong một căn phòng mà chính phủ ưu tiên cho nguời già thuê. Ban ngày bà ở đó, chiều đến con cháu thay phiên đón về nhà ăn, ngủ, tắm rửa. Sáng hôm sau lại tiếp tục, như một em bé đi nhà trẻ, đều đặn từ tháng nọ sang năm kia.

Gần đây, do tuổi tác quá cao (93 tuổi), bà bị té gãy xương đùi, không thể đi lại đuợc,và không thể tự lo vệ sinh cá nhân, nên cô em chồng sau khi bàn tính với các anh chị đã quyết định đưa bà vào đây. Anh em chúng tôi như bị dồn vào ngõ cụt, tiến thoái đều lưỡng nan. Khó tìm một giải pháp vẹn toàn, con đường nào cũng trắc trở, chông gai. Phải chăng là do số phận, do định mệnh hay do nghiệp lực? Cuối cùng phải tự an ủi và chấp nhận, đó là quy luật đời thuờng mà xã hội đặt ra để giải quyết.

Lúc chưa sang Mỹ, tôi rất có thành kiến không mấy tốt đẹp và phản đối việc đem gửi cha mẹ vào viện dưỡng lão. Giờ đây tôi mới biết rằng tôi hiểu chưa thấu. Luật pháp ở đây không cho nguời già yếu và trẻ con ở nhà một mình. Thuê nguời giúp việc thì không có, hoặc rất là đắt đỏ. Con người ở đây chịu rất nhiều áp lực về công việc làm ăn, tiền bạc.

Để đáp ứng nhu cầu vật chất gọi là thiên đường của sự hưởng thụ, nguời ta phải đánh đổi bằng những món nợ khổng lồ, mà người ta truyền miệng nhau: "không mắc nợ không phải là người Mỹ", đánh đổi sự mất mát tình cảm, đổ vỡ hạnh phúc gia đình, có khi luôn cả sinh mạng.

Những tấm gương hiếu thảo của thầy Mẫn Tử Khiên trong Nhị Thập Tứ Hiếu: "thờ cha sớm viếng khuya hầu" sẽ không có chỗ đứng trong thời khóa biểu của các người con ở thời hiện đại này. Chỉ có những viện dưỡng lão mới đáp ứng những lổ hổng mà người con không thể lấp đầy đuợc.

Ở đây, chỉ cần một cái nhấn chuông là có bác sĩ, y tá, điều dưỡng, sẵn sàng đáp ứng, giải quyết điều mình yêu cầu. Mẹ chồng tôi kêu đau bụng, là có ngay hai cô điều dưỡng nguời Mễ cao to, khỏe mạnh bồng bà đặt lên cái ghế dành cho nguời khuyết tật, đẩy vào nhà vệ sinh. Tiểu tiện thì tự do thải vào tả lót, đến giờ họ đi thay.

10 giờ sáng và 3giờ 30 phút chiều, các cụ đuợc tập trung ở phòng giải trí. Những chiếc xe lăn được đẩy tới, xếp thứ tự quanh chiếc bàn dài. Họ tham gia những trò chơi đố chữ, chuyền banh, những trò chơi vận động tay chân, nghe nhạc, xem tivi, và kết thúc bằng bánh ngọt hay trái cây với nước giải khát.

11 giờ 30 và 5 giờ chiều các cụ tập trung ở phòng ăn. Những mâm thức ăn dư thừa năng lượng. Ai không thích ngồi tại đây, thì yêu cầu mang vào phòng. Những chiếc xe lăn được đẩy tới, xếp quanh cái bàn tròn. Bàn này có tám nguời, ba người đàn ông và năm người đàn bà.

Chỉ có mẹ chồng tôi là người Việt. Ông Mỹ đen trên bốn mươi tuổi, bị tai biến mạch máu não, tay không cử động được, nên người điều dưỡng phải đút cho ông và hai bà kế bên. Tôi đặc biệt chú ý đến một bà Mỹ trắng, tuổi trên độ "thất thập cổ lai hi", nét mặt thanh tú, dáng người thon nhỏ, mảnh mai. Thời con gái chắc bà được xếp vào hàng mỹ nhân. Đôi mắt to và buồn. . . . đôi mắt như biết nói, khi đối diện với một người nào.

Ngày đầu tiên, bà nhìn tôi cười và chỉ mẹ chồng tôi hỏi "tôi là gì". Tôi trả lời là “con dâu”. Câu chuyện giữa tôi và bà chỉ dừng lại ở những câu xã giao thông thường. Vốn liếng Anh ngữ nghèo nàn của tôi, không cho phép tôi tìm hiểu sâu hơn nữa. Hoặc nếu bà có tâm sự, tôi cũng không thể hiểu hết đuợc.

Một bữa, tôi thấy bà không chịu ăn, bà ngồi trầm ngâm, rồi những giọt nước mắt liên tục tuôn trào trên gò má xanh xao. . . Bà khóc nức nở. Những người bạn cùng bàn an ủi, làm bà càng khóc to hơn. Tôi nắm tay bà, lau nước mắt và đút cho bà ăn. Bà vẫn khóc như một đứa trẻ. Liên tiếp ba ngày như vậy.

Tôi được biết qua cô y tá nguời Việt, là lâu rồi con bà không đến thăm. Hình ảnh tôi đút cơm cho mẹ chồng, làm bà nhớ con và chạnh lòng buồn tủi. Những ngày sau cùng, tôi không dám đưa mẹ chồng ra phòng ăn. Tôi không dám nhìn bà khóc thêm nữa. Lòng tôi cũng xao động, nước mắt tôi cũng chảy dài. Bởi tôi là người rất nhạy cảm và dễ xúc động.

Tôi rón rén ra nhìn. Bà ngồi đó, đôi mắt xa xăm, tư lự. Chắc chắn bà đang nghĩ về con bà. Biết bao câu hỏi, đang quay cuồng trong tâm trí: sao lâu rồi con không đến, bận rộn hay có sự bất trắc gì đã xảy ra? Bà vừa lo, vừa buồn, rồi giận, rồi thương, nhớ, làm bà không tự chủ, đè nén những cảm xúc của mình.

Chắc chắn, không biết bao nhiêu lần, cuốn phim dĩ vãng của một thời vàng son đã lần lượt, thường xuyên quay lại trong ký ức của bà. Bà nhớ đến người chồng quá cố, nhớ những đứa con bà hết lòng thương yêu, nhớ những ngày đầm ấm hạnh phúc, nhớ những lo toan, thăng trầm trong cuộc sống. Giờ này con bà có biết bà đang mõi mòn trông đợi hay không?

Ở đây, cái viện dưỡng lão này chỉ giúp người già cải thiện, bù đắp những thiếu sót về vật chất, mà con cái không thể hoàn thiện đuợc. Bác sĩ, y tá, thức ăn, thuốc men, máy móc, chỉ giúp họ hết đau đớn về thể xác. Cái tensionmètre chỉ đo đuợc chỉ số huyết áp giao động trong ngày, các máy móc kỹ thuật cao phát hiện những tổn thương sâu trong cơ thể.

Tất cả những thứ đó không giải quyết, chữa trị đuợc những đau đớn tinh thần, những giao động tâm lý, những khắc khoải triền miên của lòng khát khao yêu thương. Đó là căn bệnh trầm kha mà không máy móc, bác sĩ, y tá nào chữa trị đuợc. Đó là thứ thức ăn linh nghiệm và hiệu quả mà con nguời đã mõi mòn tìm kiếm và chưa bao giờ thấy no đủ.

Mẹ chồng tôi có sáu nguời con: bốn trai hai gái. Một mình bà nuôi nấng sáu người con khôn lớn trưởng thành. Giờ đây khi tuổi tác chồng chất, sáu người con không chăm sóc được một mẹ già. Dù rất thương mẹ, dù biết công đức sinh thành dưỡng dục, sâu rộng như trời biển; nhưng không thể nào làm tròn bổn phận, bởi những tất bật, căng thẳng và đa đoan của cuộc sống.

Bên Mỹ có ngày Mother's day và Father's day. Việt Nam có ngày Vu Lan -Bông hồng cài áo. Ai còn cha mẹ thì cài một đoá hoa cẩm chướng đỏ hay hoa hồng đỏ. Ai mất mẹ thì cái một bông cẩm chướng trắng hay hoa hồng trắng. Một hình ảnh biểu trưng, chọn một ngày để nhắc nhở những ai diễm phúc còn có mẹ, để mà yêu thương và trân quý. Với tôi một ngày trong một năm như thế là quá ít ỏi. Chẳng khác nào hạt muối trong đại dương.

Mỗi ngày, ít lắm mỗi tuần, tệ lắm mỗi tháng, ta phải tự cài lên áo một hoa hồng đỏ, qua một món quà mà mẹ yêu thích: cái bánh, củ khoai, trái chuối, ly sữa. . . . một lời thăm hỏi ân cần, một câu nói ngọt ngào, một ánh mắt ấm áp chan chứa yêu thương, một cử chỉ âu yếm, quan tâm, lo lắng. Đó là đóa hoa hồng đỏ, đã tự nở trên áo của ta, không đợi đến ngày Vu Lan được mọi người nhắc nhở.

Em chồng tôi, đều đặn mỗi ngày ghé thăm mẹ,với những món quà mà bà mẹ Việt Nam yêu thích. Mỗi tuần cô cài đủ bảy hoa hồng đỏ thắm. Bảy ngày hạnh phúc và luôn thầm cảm ơn cái đặc ân còn có mẹ để mà tự nguyện và hiến dâng. Thế mà mẹ chồng tôi vẫn không chịu đựng đuợc sự trống vắng, cô đơn khi không có sự đồng cảm giữa những người xa lạ và ngôn ngữ bất đồng. Lúc nào bà cũng muốn về nhà, khẩn khoản muốn về nhà.

Cùng phòng với mẹ chồng tôi là một bà cụ nguời Bắc năm 54, mới đưa vào ba hôm. Nguời con gái lấy chồng lính Mỹ, đã bảo lãnh bà sang đây mười mấy năm về truớc. Bà chỉ còn da bọc xương, lưng còng gần 90 độ. Bà nằm co quắp như con tôm luộc chín . Bà không còn đủ sức để ngồi lâu.

Bà chỉ ăn cháo và uống sữa. Buổi trưa, người con gái đem cháo đến đút cho bà, phát hiện đầu bà không ngẩng lên đuợc. Cô ta hốt hoảng la toáng lên: "tại sao bà không ngẩng đầu lên được, tụi nó đã làm gì bà?. Có phải tụi nó giật đầu, giật tóc bà không ? Để tôi đi hỏi cho ra lẽ?".Bà không còn hơi sức mà trả lời.

Từ khi bà đến nằm trên cái giường này, tôi chưa nghe bà nói gì ngoài tiếng thều thào yếu ớt:"cho con về nhà, con muốn về nhà". Bà nhìn tôi cầu cứu, tôi nắm bàn tay khô đét, lạnh ngắt và hỏi bà cần gì. Bà chỉ nói một câu đó, lập đi, lập lại không biết bao nhiêu lần.

Bà tới đây từ một cái viện dưỡng lão khác, mà cô con gái chê là tệ quá. Cô ta sốt ruột vì thấy mẹ mình suy sụp nhanh chóng. Cô phản ứng lồng lộn. Lòng thương mẹ mù quáng làm cô thốt ra những câu nói không tế nhị. Bác sĩ và xe cấp cứu đến, người ta đưa bà vào bệnh viện lớn để rà soát lại cơ thể. Căn phòng chỉ còn lại một mình mẹ chồng tôi.

Sớm mai thức giấc, nhìn quanh một mình
Sáng khuya trưa tối, nhìn quanh một mình
Đời mong manh quá, kể chi chuyện mình

Đó là những câu hát não nùng, thật chua chát và đắng cay mà nhạc sĩ Lam Phương đã viết cho số phận của mình vào cuối đời, với những dư chứng của bệnh tai biến mạch máu não.

Chúng tôi về lại Việt Nam, với linh tính biết đây là lần cuối cùng chúng tôi còn thấy mẹ. Buổi chia tay đẫm nước mắt và đau buồn trĩu nặng tâm tư. Mười ngày sau, vào một đêm cuối mùa hạ 2006, mẹ chồng tôi đã vĩnh viễn không mở mắt nhìn cái trần nhà, mà mấy tháng ròng rã bà ít khi rời nó. Bà ra đi trong sự an giấc của mọi người, âm thầm lặng lẽ không một ai hay biết. Còn biết bao bà mẹ khác cũng đã và sẽ ra đi trong cô đơn tẻ lạnh như thế này.

Tất cả con cháu ở rải rác ở nhiều tiểu bang đau đớn khi nhận đuợc tin khủng khiếp này. Cô em chồng tức tưởi vì bà không đợi cô. Chỉ vài tháng nữa cô sẽ nghỉ hưu non, sẽ đem mẹ về nhà phụng duỡng. Cô đã không điều đình được với Thần Chết. Mọi nguời câm lặng chịu đựng.

Trong thâm tâm ai cũng trăn trở, ray rứt, xót xa vì biết bao điều chưa thực hiện: "địa ngục chứa đầy những dự định tốt đẹp".
Làm sao cân bằng lại tâm lý, tìm lại an bình, một khi lòng cứ khắc khoải bởi những dằn vặt, ăn năn.

Thời gian trôi theo sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Người ta đã chế tạo ra nhiều thứ. . . . kể cả nguời máy, nhưng có một thứ họ không chế tạo được là trái tim người mẹ. Con người vẫn ăn ngủ, làm việc, theo cái đà tiến hóa. Không biết đủ, không vừa lòng, họ có thể bị con lốc cuốn trôi theo cái thảm họa đua đòi vật chất.

Nếu không cảnh giác không dừng lại đúng lúc, họ sẽ là một thứ nô lệ mà suốt cuộc đời họ không hề biết hạnh phúc đích thực là gì. Quên bản thân, quên quyến thuộc, quên luôn cả tử thần đang
rình rập, chờ đợi, bất cứ lúc nào cũng có thể cướp đi sinh mạng vốn đã mong manh trong từng hơi thở.

Tại ai? Tại con người? Tại xã hội hay tại ta sinh lầm thế kỷ?

Nguyên Thúy


Người Mẹ Trèo Dừa


Sức lực đâu để người mẹ này làm việc kinh khủng như vậy? Chị vừa chăm chồng mất sức, lo lắng cho mẹ chồng lớn tuổi, lại vừa trèo dừa, có khi lại làm phụ hồ kiếm tiền nuôi hai con học đại học.




Người mẹ ấy tên là Võ Thị Thơm...


Mỗi ngày chị Thơm trèo khoảng 20 cây dừa để kiếm tiền nuôi hai con học đại học

Tôi đến thôn Song Khánh, xã Hoài Xuân (huyện Hoài Nhơn, Bình Định) tìm chị Võ Thị Thơm. Hỏi hàng xóm “có thấy chị Thơm ở đâu không?”, thì họ trả lời: “Bà ấy sống trên đọt cây chứ ở dưới đất đâu mà hỏi”!



Có những ngày chị Thơm sống trên đọt dừa nhiều hơn dưới đất!


Là hộ nghèo phải nuôi hai con ăn học, chị Võ Thị Thơm (47 tuổi) hằng ngày trèo hái dừa để kiếm sống. Những buồng dừa nằm chót vót trên cao có khi đến trên 20m, vậy mà mỗi ngày chị phải trèo từ 15-20 cây, hái hàng chục buồng dừa. Chị hái thuê hoặc mua dừa trên cây rồi hái xuống bán để kiếm lời.



Chị Thơm cheo leo trên cây dừa. Để chụp được bức ảnh này, tôi phải trèo lên một cây dừa cạnh đó một cách rất vất vả, trong khi mỗi ngày chị trèo khoảng 20 cây



Đồ nghề để chinh phục độ cao chỉ vỏn vẹn sợi dây nài

Có khi không có dừa để hái, chị chuyển sang làm phụ hồ, rồi gần đây lo luôn cả 5 sào ruộng. Ruộng của gia đình chị vốn bị cầm lấy 7 chỉ vàng khi hai con lần lượt vào đại học (con trai đầu Nguyễn Văn Thuận đã tốt nghiệp ĐH Nông lâm, còn con gái Nguyễn Thị Tiện đang là sinh viên ĐH Kinh tế TP.HCM). Sau mấy năm làm lụng như điên, chị đã chuộc lại được mảnh ruộng hương hỏa ấy.



Sau khi hái xong chị cùng một vài người khác chở đi bán dạo ở phố
Không chỉ vừa làm trụ cột lo chuyện mưu sinh, chuyện học hành cho con, chị còn phải chăm bà mẹ chồng 80 tuổi và cả người chồng bị mất sức lao động.



Những trái dừa chủ nhà với người mua mời nhau giải cơn khát, giải những mệt nhọc

Ông Phạm Đình Minh, trưởng thôn Song Khánh, cho biết: “Hoàn cảnh khó khăn như gia đình chị Thơm mà nuôi được hai con ăn học đến nơi đến chốn thì quả thôn này có một không hai. Tôi thật sự thán phục nghị lực tuyệt vời của chị ấy”.



Những lúc không hái dừa, chị Thơm đi làm phụ hồ



Dù nắng hay mưa chị Thơm vẫn leo dừa, bóng chị đổ dài theo bóng cây



Chiếc xe đạp cũ kỹ trở chứng, chị ra tay sửa luôn!



Bữa cơm tuy đạm bạc nhưng luôn ấm cúng trong gia đình nghèo



Tình cảm mẹ chồng với con dâu



Mới đây chị Thơm đã gom được số tiền từ hái dừa để chuộc lại thửa ruộng mà chị cầm cố cách đây 10 năm để có tiền cho con học đại học ở TP.HCM



Hai anh em Nguyễn Văn Thuận và Nguyễn Thị Tiện hiện đang làm việc và học tập tại TP.HCM. Trong căn phòng trọ, một bức thư pháp về chữ Hiếu được hai anh em treo trang trọng để nhớ đến công ơn mẹ cha
trường đăng tuoitrevn
 

Thằng chó đẻ của má .

Tiểu Tử
Hôm nay là ngày Giỗ Mẹ
Má ơi ! Bữa nay là ngày 23 tháng chạp, ngày đưa ông Táo. Không biết những người Việt lưu vong như tụi con có còn giữ phong tục hằng năm cúng đưa ông Táo về Trời hay không, chớ vợ của con năm nào đến ngày này cũng mua hoa quả bánh ngọt cúng đưa ông Táo, cũng thành khẩn như ngày xưa, hồi còn ở bên nhà.
Năm nay, nhờ vợ của con lau dọn bàn thờ ông Táo để sửa soạn bày lễ vật ra cúng, nên con mới nhớ ra là ngày 23 tháng chạp. Ngày này cũng là ngày sanh của má. Hồi đó, má hay nói : « Ngày sanh của đứa nào còn khó nhớ, chớ ngày sanh của tao là ngày ông Táo về Trời, không dễ gì quên ! ». Và ngày này hồi đó, khi cúng vái, má hay cầu khẩn : « Ông về ở trển nhờ tâu lại bữa nay tôi lên thêm một tuổi, cầu xin Ngọc Hoàng bớt cho tôi chút đỉnh khổ cực … ». Hồi đó, nghe má cầu xin, con phì cười. Bây giờ, nhớ lại, con bỗng ứa nước mắt… Cuộc đời của má - theo lời tía kể - cũng lắm gian truân từ ngày má bỏ cái làng quê ở bờ sông Vàm Cỏ để đi theo tía dấn thân làm cách mạng vào những năm 1928/29. Gia đình giòng họ từ bỏ má cho nên hồi sanh con, tía bận đi xa, má nằm chèo queo một mình trong nhà bảo sanh, chẳng có người nào đi thăm hết. Vậy mà sau đó, má vẫn tiếp tục bôn ba …Mãi về sau, khi con lên sáu bảy tuổi, có lẽ chỉ vì sanh có một mình con nên tía má mới « trụ hình » - vẫn theo lời tía kể - với nhiều cực nhọc và khó khăn tiếp nối dài dài… Hỏi sao sau này mỗi lần đưa ông Táo má không có lời cầu khẩn nghe tội nghiệp như vậy ?
Nhớ lại, cách đây ba năm má thọ tròn trăm tuổi. Tính ra, từ ngày con đi chui theo ý má muốn - má nói : « Mầy đem vợ con mầy đi đi, để tao còn hy vọng mà sống thêm vài năm nữa » ! – cho đến năm đó, con xa má 25 năm. Con mới 72 tuổi mà cứ bịnh lên bịnh xuống nhưng năm đó con quyết định phải về. Và con đã về …
Thằng Bảy, con chị Hai Đầy ở Thị Nghè nghỉ chạy xe ôm một bữa để đưa con về cái làng quê nằm bên sông Vàm Cỏ. Nó nói : « Đi xe đò chi cho tốn tiền, để con đưa cậu Hai về, sẵn dịp con thăm bà Tám luôn ».
Hồi tụi con bước vào nhà, cả xóm chạy theo mừng. Con nhỏ giúp việc vội vã đỡ má lên rồi tấn gối để má ngồi dựa vào đầu giường : « Thưa bà cố, có khách ». Má nhướn mắt nhìn, hai mắt sâu hỏm nằm trên gương mặt gầy nhom đầy vết nám thâm thâm : « Đứa nào đó vậy ? ». Con nghẹn ngào : « Dạ, con… ». Chỉ có hai tiếng « Dạ, con » mà má đã nhận ra con ngay mặc dầu đã xa con từ 25 năm ! Má nói : « Mồ tổ cha mầy ! Trôi sông lạc chợ ở đâu mà bây giờ mới dìa ? Mà dìa sao không cho tao hay ? » Con ngồi xuống cạnh má : “ Sợ cho hay rồi má trông ” Má nói mà gương mặt của má nhăn nhúm lại : “ Tao trông từ hai mươi mấy năm nay chớ phải đợi đâu tới bây giờ ! ” Rồi má nhắm mắt một vài giây mới để lăn ra được hai giọt nước mắt. Cái tuổi một trăm của má chỉ còn đủ hai giọt nước mắt để cho má khóc mừng gặp lại thằng con ... Xúc động quá con gục đầu vào vai má khóc ngất, khóc lớn tiếng, khóc mà không cần biết cần nghe gì hết. Cái tuổi bảy mươi hai của con còn đầy nước mắt để thấm ướt cái khăn rằn má vắt trên vai...
Suốt ngày hôm đó, má con mình nói biết bao nhiêu chuyện, có sự tham dự của họ hàng chòm xóm. Nhớ gì nói nấy, đụng đâu nói đó ...vui như hội. Vậy mà cuối ngày, không thấy má mệt một chút nào hết. Con nhỏ giúp việc ngạc nhiên : “ Bình thường, bà cố nói chuyện lâu một chút là thở ồ ồ. Bữa nay sao thấy nói hoài không ngừng ! Có ông Hai dìa chắc bà cố sống thêm năm bảy năm nữa à ông Hai !”
Đêm đó, má “đuổi ” con vô mùng sớm sợ muỗi cắn. Con nằm trên bộ ván cạnh cái hòm dưỡng sinh của má. Con hỏi : “ Bộ cái hòm hồi đó má sắm tới bây giờ đó hả ? ” Má cười khịt khịt vài tiếng rồi mới nói : “ Đâu có. Cái hòm mầy nói, tao cho cậu Tư rồi. Hồi Cao Miên pháo kích quá, tao đem cậu Tư về đây ở, rồi ổng bịnh ổng chết. Tao có sắm cái hòm khác, cái đó tao cho thằng Hai con cậu Tư. Tội nghiệp thằng làm ăn suy sụp nên rầu riết rồi chết !” Con nói chen vô : “ Vậy, cái nầy má sắm sau đám của anh Hai ” Má lại cười khịt : “ Đâu có. Cái hòm sắm sau cái hòm cho thằng Hai, tao cho dì Sáu rồi. Hồi chỉ nằm xuống, nhà chỉ không có tiền mua hòm thì lấy gì làm đám ma ? ” Ngừng lại một chút rồi má mới nói : “ Còn cái hòm nầy chắc tao không cho ai nữa. Họ hàng quyến thuộc lần hồi chết hết, còn lại có mình tao thôi, có nó nằm gần tao cũng yên bụng ! ”.
Nằm tơ lơ mơ một lúc bỗng nghe má hỏi : “ Thằng chó đẻ ... ngủ chưa ? ” Con trả lời : “ Dạ chưa ” Má tằng hắng : “ Tao tụng kinh một chút nghen ” Con : “ Dạ ” mà nghe tiếng “ Dạ ” nghẹn ngang trong cổ. Mấy tiếng “ Thằng chó đẻ ” của má kêu con đã làm cho con thật xúc động. Hồi đó – lâu lắm, cách đây sáu mươi mấy bảy chục năm, hồi con còn nhỏ lận – má hay gọi : “ Thằng chó đẻ, lại hun cái coi ! ”. Hồi đó, mổi lần cưng con, nựng con, ôm con vào lòng má luôn luôn gọi con bằng “ thằng chó đẻ ” ! Mà con thì chỉ biết sung sướng khi nghe má gọi như vậy. Rồi con lớn lần, má không còn gọi con bằng “ thằng chó đẻ ” nữa. Con không để ý và chắc má cũng không để ý đến chuyện đó. Mãi đến bây giờ má lại gọi con bằng “ thằng chó đẻ ”, gọi tự nhiên như hồi còn nhỏ. Chỉ có mấy tiếng thật thô thiển bình dị, nghe khô khan như vậy mà sao con cảm nhận tình thương thật là tràn đầy. Và đối với má, dầu tuổi đời của con có cao bao nhiêu nữa, con vẫn là “ thằng nhỏ ”,” thằng chó đẻ cưng ”. Con bắt gặp lại sự sung sướng của hồi đó khi được má gọi như vậy. Rồi bao nhiêu hình ảnh thuở ấu thời hiện về trong đầu con, liên miên chớp tắt. Đêm đó, con trằn trọc tới khuya...
Sáng hôm sau, má biểu con đẩy xe lăn đưa má đến từng bàn thờ để má thắp nhang tạ ơn Trời Phật, Ông Bà. Cuối cùng, đến bàn thờ của tía, má nói : “ Ông ơi, Có thằng nhỏ nó dìa đó. Ông độ cho nó được mạnh giỏi, độ cho vợ con nó ở bên tây được suông sẻ trong công việc làm ăn...” Đứng sau lưng má, con phải cắn môi thật mạnh để khỏi bật lên thành tiếng nấc !
Đẩy má ngang bàn viết cũ của tía, con thấy trên tường có treo hai khuôn kiếng lọng văn bằng đỏ chói có đóng dấu cũng đỏ chói của Nhà Nước. Con ngừng lại đọc : một tấm là huân chương hạng nhứt và một tấm là huy chương hạng ba cấp cho Lê thị Ráng. Con hỏi : “ Cái gì vậy, má ? ” Má nói : “ Mề-đai của tụi nó cho tao. Tụi nó bươi chuyện thời ông Nhạc nào đâu hồi mấy năm 1928-29 rồi chạy lại cho. Cái hạng nhứt đó cho năm ngoái, còn cái hạng ba mới cho đây ” Con cười : “ Vậy là họ hạ cấp má rồi ” Má hỏi : “ Sao mầy nói vậy ? ” Con giải nghĩa: “Thì từ hạng nhứt tuột xuống hạng ba là bị hạ cấp chớ gì nữa ?” Má cười: “Mầy không biết. Cái đầu hạng nhứt đó, cho treo chơi chớ không có tiền. Cái hạng ba đó mới có cho tiền ” Con đùa : “ Vậy má chia cho con chút đỉnh lấy hên coi ! ” Má khoát tay : “ Ối ...từ ngày nhận cái mề-đai đó tới nay đã ba tháng rồi mà có thấy tụi nó đưa tiền đâu. Nghe nói còn mấy khâu gì gì đó chưa thông nên có hơi trễ ! ” Thấy trên văn bằng đề “Lê Thị Ráng ” con thắc mắc : “ Ụa ! Mà Lê Thị Ráng đâu phải là tên của má. Trong khai sanh của con, má là Lê Thị Láng mà !” Má cười khục khục mấy tiếng rồi mới nói : “ Để tao nói cho mầy nghe. Hồi đó tao sanh mầy ở gần nhà thờ Cha Tam, trong Chợ Lớn. Cô mụ người tàu, nói tiếng Việt còn lơ lớ. Cổ hỏi tao tên gì để làm khai sanh. Tao nói tao tên Ráng, mà R cổ nói không được, nên ra sở khai sanh, cổ nói Ráng thành Láng là như vậy ” Mãi tới bảy mươi hai tuổi con mới biết tên đúng của má là “ Ráng ” !
Hôm đưa ông Táo, con có tổ chức một bữa tiệc để ăn mừng một trăm tuổi của má, có họ hàng tham dự đầy nhà. Vừa ngồi vào bàn, dì Bảy Giang nói : “ Theo phong tục mình, con cái phải quì lạy để chúc thọ mẹ cha. Bây giờ, chị Tám được một trăm tuổi, hiếm lắm, quí lắm. Mầy phải lạy má mầy đi rồi ăn uống gì ăn ” Mọi người vỗ tay tán thành. Má cũng cười, nói : “ Ồ phải ! Hồi nẳm, đám cưới của mầy, mầy có đi học lạy với cậu Bảy Dinh, nhưng bên đàng gái miễn lễ chỉ bắt xá thôi, rồi về đây tía mầy cũng miễn luôn. Cho nên tao chưa thấy mầy lạy ra sao hết. Đâu ? Mầy lạy tao coi ! ” Mọi người lại vỗ tay nữa. Con đứng trước mặt má, chấp tay ấp úng: “ Thưa má. Hôm nay là ngày sanh thứ một trăm của má, con xin lạy mừng thọ má ” Rồi con lạy ba lạy, cũng đủ điệu bộ lên gối xuống gối như con đã học lạy cách đây gần năm chục năm. Con lạy mà nước mắt chảy quanh. Con biết rằng lần lạy đầu tiên này có thể là lần lạy cuối cùng, bởi vì qua Tết, con sẽ trở về Pháp với cái lạnh cắt da của mùa đông, rồi sau đó biết có còn về nữa hay không ? Sức khỏe của con càng ngày càng kém, bao nhiêu thứ thuốc uống vô hằng bữa liệu kéo dài sự sống của con được đến bao lâu ? Điều này, con đâu dám cho má biết. Mọi người lại vỗ tay khi con lạy xong. Rồi thì nhập tiệc. Bữa tiệc hôm đó thật là vui. Người vui nhứt là má.
-oOo-
Má ơi ! Bữa nay là ngày sanh thứ 103 của má, ngày đưa ông Táo về Trời. Vậy là ba năm qua rồi, con đã không về thăm má. « Thằng chó đẻ » của má vẫn còn « trôi sông lạc chợ », để cho má cứ phải trông nó về, trông hằng ngày, trông mòn con mắt, trông khô nước mắt !
Má thương con , xin má tha thứ cho con... tha thứ cho con ….
 
Tiểu Tử
 

“Không hối lộ, Chống áp bức” Tuesday, March 09, 2010

http://www.nguoi-viet.com               Ngô Nhân Dụng                       
Ngày hôm qua, Luật Sư Lê Thị Công Nhân lại bị công an Cộng Sản bắt cóc đem về “bót,” chỉ có mấy ngày sau khi được thả.
Họ thay nhau thẩm vấn cô hơn 4 giờ, cuối cùng chỉ cốt để ngăn cản không cho tiếp một phóng viên ngoại quốc đã hẹn gặp để phỏng vấn cô. Hành động của công an Cộng Sản vẫn chứng tỏ chế độ này không có một khái niệm nào về liêm sỉ, không biết xấu hổ, không biết ngượng. Nó cũng chứng tỏ họ sợ thông tin, sợ sự thật, sợ những người dám nói sự thật.
Cô Lê Thị Công Nhân là một người đáng khâm phục. Cô là mẫu người bất khuất. Vì cô nhiệt thành tin vào mục đích của cuộc đời mình. Bước ra khỏi nhà tù Cộng Sản, cô vẫn tươi cười, thản nhiên, vẫn quyết dấn thân suốt đời tranh đấu cho dân Việt Nam được sống tự do. Thanh niên Việt Nam có thể noi gương cô. Nhìn vào tấm gương của cô, thế hệ trẻ ở nước ta sẽ vững tin sẽ có ngày mọi người đều được sống tự do dân chủ.
Niềm tin đó rất cần thiết. Vì hiện nay thanh niên nước ta đang bị lôi kéo vào cuộc sống đam mê vật chất, để chỉ nghĩ đến mình, không quan tâm đến người khác. Trong cuốn Lạc Ðường của nhà văn Ðào Hiếu, một nhân vật tuyên bố: “Hồi trẻ tôi thường nghĩ: Làm người thì phải có lý tưởng, phải tin vào một cái gì đó và phải biết ước mơ... Hàng triệu thanh niên cũng nghĩ như tôi vậy. Nhưng thật tội nghiệp cho thế hệ thanh niên ngày nay... khi lịch sử đã chứng minh rằng lý tưởng chỉ là cái mớ giẻ rách...” Ông Ðào Hiếu đã lớn lên ở miền Nam, học trong hệ thống trường học chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Chính trong hệ thống học đường đó, ông được các thầy cô dậy sống theo một lý tưởng. Ông đã theo mấy giáo sư mà tin tưởng vào đảng Cộng Sản, hoạt động nội thành có công, được gia nhập đảng. Sau năm 1975 ông có lúc được trọng dụng, nhưng hoạn lộ không bằng phẳng vì tính bộc trực, không chịu luồn cúi. Nhưng tại sao một người trên 65 tuổi đó lại tỏ ý chán chường như câu “lý tưởng chỉ là cái mớ giẻ rách”? Nhà văn còn kêu gọi mọi người, “Ðừng tin ai, đừng trung thành với ai, đừng hy sinh vì cái gì cả... (C)ả lũ chúng ta đang bị lừa.” (Lạc Ðường, in 2008, trang 118).
Ðời sống của cô Lê Thị Công Nhân là những lời khẳng khái bác bỏ ý tưởng bi quan yếm thế đó. Thái độ bình tĩnh và nụ cười tự nhiên của cô là một thông điệp hùng hồn nhưng rất giản dị: Chúng ta có thể sống với lý tưởng. Trong lịch sử nhân loại không thiếu gì những vụ lừa đảo, những vụ lừa đảo hàng loạt, lừa đảo cả một thế hệ, lừa đảo một nửa loài người cũng được. Nhưng cuối cùng, suốt lịch sử, loài người vẫn giữ niềm tin vào những giá trị cao hơn cuộc sống cá nhân mình. Cứ té ngã rồi lại đứng dậy. Loài người vẫn nuôi nhiều giấc mộng lý tưởng. Và đó là lý do chúng ta vẫn tiếp tục sống, tiếp tục mưu cầu hạnh phúc, xây dựng một xã hội loài người tốt đẹp hơn.
Chúng ta cảm ơn những người như Lê Thị Công Nhân, vì cô đang tặng cho tuổi trẻ Việt Nam một thứ mà xã hội đang thiếu: Niềm vui sống với một lý tưởng. Dân ta đang cần sống với niềm tin. Nói theo kiểu Phan Bội Châu đời xưa, chúng ta vẫn cần “Chấn Dân Khí.”
Hơn một thế kỷ trước đây, trong cuốn Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (lá thư mới viết bằng máu và nước mắt, từ quần đảo Lưu Cầu), năm 1903, Phan Bội Châu nói tới ba nhu cầu thay đổi của nước ta: Học thuật, Nhân tài, và Dân khí. Ðổi Học thuật, giống như ngày nay chúng ta nói phải học hỏi khoa học kỹ thuật tiến bộ của nhân loại. Dưỡng Nhân tài, cũng giống như nhu cầu cải thiện giáo dục và đào tạo thanh niên. Phan Bội Châu viết: “Trong ba điều nói trên thì chấn dân khí là (việc cần làm) trước hết.” (Phan Bội Châu Toàn Tập, xuất bản 1990, cuốn 1, trang 145).
Cụ Phan nhận thấy: “Dân khí nước ta bị suy giảm quá tệ.” Cụ nêu lên các triệu chứng: Quen thói sợ hãi; thiếu hiểu biết; người dưới làm điều đê tiện mà không biết hổ, chịu sự ô nhục mà không biết thẹn; người trên lo trang sức cho đẹp mắt, giữ hủ lậu cho yên thân.” Tình trạng dân khí đầu thế kỷ 20 như thế. Hiện nay có thấy tốt hơn hay không, chỉ các nhà trí thức trong nước Việt Nam mới trả lời được.
Phan Bội Châu mô tả tình trạng Dân Khí tồi tệ, nói có những kẻ “Nghe một lời nói khác mình thì khiếp sợ như nghe sấm sét; thấy một người làm khác mình thì cho là quái lạ như Thục khuyển phệ Nhật, Việt khuyển phệ tuyết.”
Phản ứng của các lãnh tụ đảng Cộng Sản khi thấy Nguyễn Văn Ðài, Lê Thị Công Nhân đứng lên dõng dạc đòi dân Việt Nam được quyền sống như những con người; đúng là họ khiếp sợ như nghe sấm sét! Ðám công an Cộng Sản thấy các ông Nguyễn Thanh Hải, cô Phạm Thanh Nghiên bầy tỏ ý kiến chống Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, Trường Sa thì cũng kinh ngạc không khác gì những con chó ở nước Thục cất tiếng sủa khi trông thấy mặt trời, con chó ở nước Việt thì sủa vang lên khi thấy tuyết; vì những loài chó này ít khi được nhìn thấy các “vật lạ” đó.
Trong thế kỷ trước, Phan Bội Châu đã đặt câu hỏi: Muốn chấn dân khí, phải làm thế nào? Một điều bất ngờ đối với những người Việt sống sau Cụ Phan 100 năm, là câu trả lời của Cụ Phan rất có tính thời sự. Cụ chỉ nêu lên hai việc phải làm. Một: “Cốt yếu là phải tuyệt đường hối lộ để khích lệ lòng liêm sỉ.” Hai: “Phải bớt lệnh áp bức để cổ võ chí khí cương cường.”
Khi đọc hai câu trong tựa đề bài này, chắc nhiều vị độc giả không nghĩ đó là những phương thuốc trị bệnh cho nước Việt Nam do Phan Bội Châu đề nghị từ thế kỷ trước:
“Tuyệt đường hối lộ,” và “Bớt lệnh áp bức.”
Cụ Phan không nêu lên hai việc cần thiết đó như là những khẩu hiệu chống chế độ thực dân Pháp, hoặc chống triều đình nhà Nguyễn nhu nhược hủ lậu. Nhưng cụ coi đó là 2 việc cần làm để giúp cho “dân khí” nước ta phấn chấn. Chấn Dân Khí nghĩa là làm sao con người Việt Nam không hèn nhát, không ỷ lại, không ích kỷ, không sợ cường quyền. Hai cụ Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu đều coi việc chấn dân khí là quan trọng nhất trong công cuộc phục hồi phẩm giá và danh dự cho dân tộc Việt Nam. Một trăm năm sau, điều này vẫn đúng.
Phan Bội Châu coi chống tham nhũng là phương tiện: Phải chấm dứt nạn tham nhũng hối lộ, thì mới tập cho người dân Việt biết thế nào là liêm sỉ. Liêm sỉ mới là cứu cánh. Trong một xã hội mà giới trẻ lớn lên thấy muốn gì cũng phải có tiền; và nếu có tiền thì cái gì cũng mua được; trong xã hội như vậy, thanh niên sẽ mất hết khái niệm về đức liêm sỉ. Trước đây nửa năm, công an Lâm Ðồng bắt đầu tấn công quậy phá các tăng ni trẻ tu tập ở Tu viện Bát Nhã; lúc đó đã có người đánh tiếng rằng vụ rắc rối này có thể thu xếp được. Người ta đưa điều kiện là phải đưa ra một triệu đô la Mỹ. Nhưng các thiền sinh trẻ tuổi ở Tu viện Bát Nhã đã từ chối. Nếu ngỏ lời kêu gọi lạc quyên, thì dù nêu ra bất cứ lý do nào, họ có thể được Phật tử khắp thế giới quyên góp, chắc cũng đủ gần triệu Mỹ kim, có thể mặc cả. Nhưng họ không làm.
Vì họ không thể đóng vai những người đi đưa tiền hối lộ, “cho tiện công việc”. Họ đang tập lối sống chính trực, lương thiện, và muốn khuyến khích mọi người sống chính trực, lương thiện. Nếu đưa tiền hối lộ thì chẳng khác gì tự phủ nhận lý tưởng sống của mình! Họ ở lại tu viện Bát Nhã để làm gì nếu chính lý tưởng của mình đã bị mất? Họ không đưa tiền hối lộ, vì họ yêu nước Việt Nam. Theo đúng lời khuyên của cụ Phan Bội Châu, họ chứng tỏ ở trong nước Việt Nam hiện nay còn rất nhiều người vẫn giữ vững liêm sỉ. Trên đời không phải cái gì cũng mua được! Các tăng ni Bát Nhã đã làm gương cho giới trẻ Việt Nam. Phan Bội Châu viết rõ ràng: “Con đường hối lộ chưa chặn hẳn thì dân khí không sao chấn được!” (Toàn Tập, cuốn 1, trang 146).
Cô Lê Thị Công Nhân, trong một hoàn cảnh khác, cũng nêu tấm gương sáng cho giới trẻ nước ta, theo đúng lời khuyên thứ hai của Phan Bội Châu. Cô và các nhà tranh đấu dân chủ khác đang đòi chính quyền Cộng Sản bớt áp bức những người dân bị oan khuất và các nhà trí thức bất đồng ý kiến. Chính họ đang “cổ võ ý khí cương cường” cho thế hệ các thanh niên đang lớn lên. Nói theo lối cụ Phan, những cuộc tranh đấu đòi tự do dân chủ của giới trí thức nước ta, từ Nguyễn Huệ Chi, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Ðan Quế hay Thích Quảng Ðộ, Nguyễn Văn Lý đều “chống áp bức” để giúp cho người dân Việt Nam hết sợ hãi. Khi đó, “công luận vững như sắt đá, chính lý sáng từ cổ kim; búa rìu không uy hiếp nổi, uy quyền không đe dọa được.” (trang 147)
Phan Bội Châu viết lá thư “Lưu Cầu” này ở Huế, nhưng mượn tên hòn đảo Nhật Bản này vì số phận của dân họ cũng giống nước Việt Nam lúc đó. Lưu Cầu, Riu Kiu, vốn là một vương quốc độc lập không thuộc giống dân Nhật, đã bị Nhật Bản chiếm nhiều lần và bị sáp nhập từ năm 1879, đổi tên là quần đảo Xung Thằng (Okinawa), họ mất nước từ đó tới nay.
Nhiều người Việt Nam cũng đang lo mối nguy mất nước, lúc này đọc lại những lời huyết lệ của cụ Phan còn thấy hợp. Muốn nước đứng vững và tiến lên, trước hết phải chấn hưng “dân khí.” Phải nâng cao tinh thần tự tin và nuôi dưỡng lý tưởng của thanh niên. Lý tưởng không phải là “những cái giẻ rách.” Lý tưởng có thật. Nó giúp cho đôi mắt của Lê Thị Công Nhân lúc nào cũng sáng ngời. Lý tưởng biến các tăng ni trẻ Bát Nhã thành những hạt giống Bồ Ðề. Và chính vì những lý tưởng vị tha, Ðức Giám Mục Ngô Quang Kiệt khuyên các giáo dân từ Vinh lên đưa tiễn ngài hãy thắng mọi sợ hãi. “Chúng ta phụng vụ trong Ðức Tin chứ không phải trong sợ hãi.” Trên đường sang Roma chữa bệnh ngài cũng yêu cầu mọi người hãy can đảm “nói sự thật” mà không sợ đàn áp. Ðó là những bản tuyên ngôn “Chấn dân khí” gửi đến tuổi trẻ Việt Nam.
Chúng ta thấy ở trong nước Việt Nam còn bao nhiêu người nuôi đức tin mãnh liệt, tin vào vào lẽ phải và sự thật, tin tưởng vào phẩm giá con người, tin con người có khả năng hướng vào điều thiện. Tất cả chúng ta có thể lạc quan. Thanh niên Việt Nam có thể sống với lý tưởng; và họ rất đáng sống với lý tưởng. Năm 1903 Phan Bội Châu còn phải chứng kiến nước ta sống dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và lũ quan lại hủ bại nhà Nguyễn. Nửa thế kỷ sau, dân Việt Nam đã đứng lên phá bỏ gông xiềng. Chế độ Cộng Sản sẽ tàn lụi không khác gì các chế độ thực dân và phong kiến.
http://www.nguoi-viet.com               Ngô Nhân Dụng          

No comments:

Post a Comment