Pages

Tuesday, June 8, 2010

Tham nhũng: Nguyên nhân và giải pháp VOA - Nguyễn Hưng Quốc Blog


Tham nhũng là lợi dụng công quyền cho lợi ích riêng tư (Corruption is the abuse of public power for private gains).
Có thể nói ở đâu có công quyền ở đó đều có nguy cơ cướp bóc và tham nhũng. Công quyền tuyệt đối thì đẻ ra cướp bóc. Công quyền tương đối thì dẫn đến tham nhũng. Ngày xưa, vua chúa không cần tham nhũng: Họ chỉ đơn giản cướp tài sản của cả nước làm của riêng. Chỉ có quan lại mới tham nhũng. Động cơ chính của cả cướp bóc lẫn tham nhũng đều là lòng tham. Nhưng vấn đề không phải là diệt trừ lòng tham. Đó chỉ là lý tưởng của các tôn giáo. Về phương diện chính trị, lý tưởng ấy chỉ là ảo tưởng. Bởi vậy, nhân loại luôn tìm cách chống lại cả cướp bóc lẫn tham nhũng bằng luật pháp.
Ở trên, tôi mới viết: ngày xưa, chỉ có quan lại mới tham nhũng. Như vậy, tham nhũng gắn với ít nhất ba yếu tố: một, có quyền; hai, quyền ấy ít nhiều bị hạn chế; và ba, vì sự hạn chế ấy, việc cướp bóc phải được nguỵ trang dưới hình thức vơ vét lén lút, thường được gọi là tham nhũng. Điểm khác biệt giữa các quan tham ngày xưa và các quan tham bây giờ chỉ nằm ở chỗ: yếu tố hạn chế quyền lực của các quan tham ngày xưa là vua chúa; của các quan tham ngày nay là pháp luật.
Nói như vậy để thấy, để ngăn chận tham nhũng, pháp luật không, không đủ. Thậm chí có khi luật pháp còn tạo cơ hội cho bọn tham nhũng dễ hoành hành. Chứ không phải sao? Luật pháp có hai chức năng chính: hạn chế quyền lực và quy định trách nhiệm. Trong rất nhiều trường hợp, ở các quốc gia toàn trị, luật pháp không đủ để hạn chế quyền lực; nó chỉ còn chức năng thứ hai: duy trì trách nhiệm của những kẻ không có hoặc có rất ít quyền lực. Trong tất cả các trách nhiệm ấy, trách nhiệm đứng đầu là vâng phục. Trong các chế độ toàn trị, vâng phục cũng có nghĩa là để mặc cho bọn có quyền tha hồ tự tung tự tác.
Điều đó giải thích tại sao mặc dù hiện nay hầu như quốc gia nào cũng có pháp luật, nhưng ở vô số quốc gia, nạn tham nhũng vẫn cứ là quốc nạn. Việt Nam vốn luôn luôn tự hào là có nhiều luật. Trong cuộc hội thảo quốc tế về phòng chống tham nhũng do Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam liên kết với Đại sứ quán Thuỵ Điển được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 27 tháng 5 vừa qua, Đại sứ Thuỵ Sĩ mỉa mai: Việt Nam có nhiều luật

Luật chỉ là những tờ giấy. Những tờ giấy ấy chỉ có hiệu lực nhờ một yếu tố khác: một cơ chế đủ mạnh để thực hiện và kiểm tra các luật ấy. Trong lãnh vực phòng chống tham nhũng, cái cơ chế ấy cần có hai điều kiện căn bản: tính minh bạch (transparency) và tính khả kiểm (accountability). Hai tính chất này đi liền với nhau: tính khả kiểm chỉ trở thành hiện thực nếu có sự minh bạch; ngược lại, không có sự minh bạch nào thực sự là minh bạch nếu nó không có tính khả kiểm. Có thể nói tính minh bạch là điều kiện của tính khả kiểm, trong khi tính khả kiểm là thước đo của sự minh bạch.
chống tham nhũng hơn cả Thuỵ Sĩ!
Robert Klitgaard, Ronald MacLean-Abaroa và H. Lindsey Parris cho tham nhũng là một tội phạm do tính toán chứ không phải do đam mê. Người ta chỉ phạm tội tham nhũng khi nguy cơ bị phát hiện thấp; nếu bị phát hiện, hình phạt cũng nhẹ, trong khi đó món lợi mà người ta thu được lại lớn. Ba người nêu lên một công thức về tệ nạn tham nhũng được giới nghiên cứu đồng tình và thường trích dẫn:
TN = ĐQ + QĐ – KK
(TN: Tham nhũng, Corruption; ĐQ: Độc quyền, Monopoly Power; QĐ: Quyền quyết định, Discretion by officials; KK: Tính khả kiểm, accountability).
Có thể đọc công thức này như sau: Tham nhũng bằng Độc quyền (của nhà nước) cộng quyền quyết định (của cán bộ) và trừ cho tính khả kiểm.
Theo công thức ấy, tham nhũng có khuynh hướng nở rộ khi cán bộ viên chức được độc quyền trên vật dụng cũng như dịch vụ, và họ có quyền quyết định không giới hạn ai sẽ là người được hưởng vật dụng hay dịch vụ ấy mà không bị bất cứ sự kiểm soát nghiêm ngặt hay minh bạch nào cả. (1)
Y. Wang, W. Chi và W. Sun, khi làm một cuộc điều tra trên 130 vụ án tham nhũng bị phát hiện và được tường thuật trên báo chí của các cán bộ cao cấp tại Trung Quốc từ năm 2003 đến năm 2006, đã ghi nhận một đặc điểm: cán bộ càng cao cấp, số tiền tham nhũng càng lớn (2). Xiaogang Deng, Lening Zhang và Andrea Leverentz phát hiện đặc điểm chính của các vụ tham nhũng tại Trung Quốc từ mấy chục năm trở lại đây đều liên quan đến đất đai. Lý do thứ nhất là vì dễ: trước đây toàn bộ đất đai đều nằm trong tay nhà nước; thứ hai là lợi nhuận lớn: giá đất càng ngày càng tăng, hơn nữa, tăng cực nhanh (3).
Những hiện tượng tham nhũng ở Việt Nam chắc cũng tương tự. Tiếc, đến nay, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào thật nghiêm túc và toàn điện về vấn đề này.
Ngoài hai yếu tố luật pháp và cơ chế trình bày ở trên, còn một yếu tố khác làm nảy sinh và nảy nở nạn tham nhũng: văn hoá. Theo R. Theobald, trong cuốn Corruption, Development, and Underdevelopment (Durham: Duke University Press, 1990), ở các xã hội có truyền thống đại gia đình và lòng trung thành gắn liền với bộ tộc, nạn tham nhũng bao giờ cũng nhiều hơn những nơi khác. Trong bài “Why do People Engage in Corruption? The Case of Estonia” đăng trên tạp chí Social Forces số 88 xuất bản vào tháng 3 năm 2010, Margit Tavits phân tích một số yếu tố khác liên quan đến văn hoá: sự thiếu tin cậy đối với người khác cũng như đối với hệ thống và thái độ của dân chúng đối với vấn đề tham nhũng. Về điểm thứ nhất, có quan hệ hai chiều: vì thiếu tin cậy, người ta sẵn sàng bỏ tiền ra đút lót cán bộ; và vì đã đút lót, người ta lại càng mất niềm tin. Về điểm thứ hai, nói chung, người ta rất dễ tham gia vào các việc tham nhũng nếu người ta không nghĩ đó là một việc sai trái về phương diện đạo đức mà chỉ nhìn qua lăng kinh kinh tế: việc trao đổi ấy có thể chấp nhận được hay không.
Tất cả những đặc điểm về văn hoá tham nhũng nêu trên đều có thể tìm thấy ở Việt Nam. Bởi vậy, việc khắc phục tệ nạn tham nhũng ở Việt Nam, ngoài việc tăng lương cho công nhân viên chức như người ta thường nói, còn phải chú ý đến hai khía cạnh quan trọng khác: thay đổi về văn hoá và chính trị.
Về phương diện chính trị, điều quan trọng nhất là phải dân chủ hoá. Nói một cách tóm tắt, dựa trên các số liệu thu thập ở phạm vi toàn thế giới, hầu hết các học giả đều đồng ý một điểm: tham nhũng có tỉ lệ nghịch với dân chủ. Ở các quốc gia có nền dân chủ cao, luật pháp nghiêm minh và quyền công dân được tôn trọng, nạn tham nhũng bao giờ cũng thấp hơn hẳn các quốc gia độc tài. Trong các quyền công dân ấy, quan trọng nhất là quyền tự do ngôn luận. Theo Ce Shen và John B. Williamson, “trong cuộc đấu tranh chống lai tham nhũng, tự do báo chí đóng vai trò độc tôn vì chính các cơ quan truyền thông đại chúng là điều kiện tất yếu trong việc kiến tạo và duy trì một không khí xã hội có khả năng làm nản lòng (những người tham nhũng) và kiểm soát mức độ tham nhũng.” (4)
Đụng đến chính trị, việc chống tham nhũng, do đó, đầy những gai góc. Đụng đến văn hoá, đó là một quá trình lâu dài. Nhưng không quyết tâm chống tham nhũng, ước vọng xây dựng một quốc gia giàu mạnh và bình đẳng lại càng khó khăn và xa vời hơn nữa.
Không chừng chỉ là một ảo tưởng.

==========================

VOA - Bùi Tín Blog

Về những văn kiện đại hội XI: I. Thiếu lập luận chặt chẽ, lẩn tránh thực tế, nói lấy được



Một nhóm bạn sinh viên trẻ ở Hà Nội và Sài Gòn nhắn sang Paris yêu cầu nhà báo Bùi Tín đưa ra vài nhận xét về những văn kiện của đại hội XI đang và sẽ được thảo luận trong các đại hội đảng các cấp cơ sở, quận huyện, tỉnh thành, các ngành quân đội, công an, cơ quan trung ương.

Tôi vui, mừng nhận được yêu cầu này. Tuổi trẻ quan tâm đến các vấn đề chính trị của đất nước là điều quý.

Đáp lại niềm tin yêu của các bạn trẻ, tôi sẽ viết vài bài nhận xét thật khách quan, không định kiến, công bằng về những văn kiện ấy, để tùy các bạn xem xét, suy luận và có chính kiến của chính mình.

Trước hết tôi nghĩ một đảng có ý thức trách nhiệm cao với đất nước, với dân tộc cần có thái độ ngay thật, công khai minh bạch với nhân dân, có tinh thần tự phê bình thật cao, nói rõ cả những thành tích, cả những thiếu sót, lỗi lầm của chính mình, kiến nghị những giải pháp sát đúng, có hiệu quả.

Văn kiện đưa ra trước Đại hội các cấp phải là văn kiện có lập luận chặt chẽ và chính xác, dựa vào thực tiễn là thước đo của chân lý, phản ánh đúng cuộc sống thực tế, đáp ứng đúng nguyện vọng và lợi ích của các tầng lớp nhân dân.

Trong các văn kiện chuẩn bị cho Đại hội XI, ngoài bản “Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương khóa X”, có bài “Sự phát triển nhận thức của đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay” là đáng chú ý nhất.

Vì các văn kiện trên đây mang cái vẻ của một văn kiện để tuyên truyền hơn là một bản báo cáo chính trị trình đại hội đảng, thiên về nêu bật những kết quả, thắng lợi với những tính từ nhấn mạnh có phần quá đáng, còn những thiếu sót, khuyết điểm lầm lỗi thì chỉ như kể qua cho có, thiều sự thành khẩn cần thiết, nên tôi sẽ chú trọng nêu lên điều thiên lệch ấy.

Thiếu lập luận chặt chẽ, lẩn tránh thực tế là nét yếu cơ bản nhất của các văn kiện. Một số luận điểm quan trọng được đưa ra, mà chưa được lập luận chặt chẽ, thiếu sức thuyết phục. Người nghe cứ nghe mãi rồi quen đi, nhưng thực tế chưa hề được chứng minh.

a)- Ví dụ các văn kiện khi đánh giá khái quát quá trình cách mạng trong hơn 60 năm qua, đã nêu bật nhận định : “Cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đã đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên Độc lập Tự do”.

Nhận định này không có lập luận chứng minh, do không có thực tế để dẫn chứng.

65 năm nay, dân tộc ta đã có độc lập và tự do ngày càng trọn vẹn hay chưa? Độc lập của dân tộc thì có, nhưng tự do của nhân dân, tự do của công dân thì chưa. Một đất nước không có tự do báo chí, công dân không được ra báo, công dân không có điều kiện thực hiện bầu cử tự do, không có quyền tự do ứng cử bầu cử, lựa chọn đại biểu của mình như ở các đất nước tự do dân chủ khác, vậy luận điểm trên đây có giá trị chân lý hay không?

Khi tự do của người công dân trong toàn xã hội không được tôn trọng và phát huy thì nền độc lập của đất nước cũng không vững chắc vì thiếu một sự cố kết dân tộc trước hiểm họa bành trướng và xâm lăng.

Không bao giờ câu châm ngôn “Không gì quý hơn độc lập tự do” – tự do thật sự của xã hội, tự do của mỗi công dân -- lại có ý nghĩa cấp bách như hiện nay.

Khẳng định của văn kiện Đại hội XI rằng nước ta đã bước vào “Kỷ nguyên Độc lập Tự do từ tháng 8 năm 1945” là không đúng với thực tế, là sai so với cuộc sống thật hàng ngày, còn nguy hiểm vì nó che dấu khát vọng tự do cháy bỏng hiện nay của đông đảo nhân dân trong thời kỳ mở cửa hội nhập, còn nhằm bóp ngẹt khát vọng chính đáng về tự do ngôn luận, tự do sáng tạo của hàng chục vạn nhà báo viết, báo nói, báo mạng, cũng như của đông đảo văn nghệ sỹ và của toàn dân hiện nay. Cần công nhận rằng từ năm 1986 quyền tự do kinh tế, tự do kinh doanh đã được thực hiện, quyền tự do công dân có được tôn trọng như tự do di chuyển, tự do xuất ngoại để kinh doanh, du học, du lịch, chữa bệnh…, nhưng quyền tự do chính trị thì vẫn bị hạn chế ngặt nghèo do chế độ độc quyền đảng trị. Đây là một sự thật rành rành mà lãnh đạo không dám khẳng định trước nhân dân. Chính sự thiếu tự do của công dân, của báo chí, của công luận đã làm bế tắc cuộc đấu tranh chống tham nhũng lãng phí (có phỏng đoán tham nhũng lãng phí làm hao tổn 20% thu nhập quốc dân hàng năm ) và làm cho đạo đức xã hội suy đồi, tệ nạn xã hội luôn đạt mức “kỷ lục” cả về số vụ việc và tính chất nghiêm trọng, bất công xã hội lan tràn khắp nơi.

b )- Ví dụ thứ 2 là nội dung nói về “nền dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Văn kiện viết rất chung chung, không có dẫn chứng thực tế, nhưng lại khẳng định là: “trong khi dân chủ và pháp quyền tư bản chủ nghĩa chỉ là công cụ bảo vệ và phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản thì dân chủ và pháp quyền XHCN là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích của nhân dân”.

Thực tế có đúng như thế hay không? Tôi đã nhiều năm sống trên đất Pháp, Đức, Mỹ, Canada…, quan sát tại chỗ nhiều buổi họp Quốc hội, theo dõi khá nhiều phiên tòa ở Paris, Berlin, Houston, San José (Mỹ), Ottawa (Canada), v.v., thì tôi cho rằng dân chủ đạt được mức độ như ở các nước tư bản ấy, xem ra ta sẽ còn lâu, lâu lắm mới đạt.

Ở Pháp, thường cứ vào một chiều thứ năm trong tháng, Quốc hội mở cuộc chất vấn Chính phủ, bất cứ đại biểu quốc hội nào cũng có quyền giơ tay đứng dậy đặt bất cứ một vấn đề gì cho bất cứ thành viên chính phủ nào, từ Thủ tướng, bộ trưởng đến thứ trưởng, và ngay sau đó người bị chất vấn phải trả lời lập tức, rõ ràng, cặn kẽ. Toàn là những vấn đề gai góc, phức tạp, gay cấn, mang kịch tính cao, hấp dẫn công luận, gây tranh luận xôn xao trên báo chí. Ở Hà Nội, bao giờ được như thế?

Ở các nước trên, không thể xảy ra những phiên tòa chính trị bịt mồm bị cáo, nói là xử công khai mà không cho thân nhân, bạn bè, nhà báo tự do, viên chức nước ngoài tham dự, không cho luật sư biện hộ đến cùng, những phiên tòa chỉ xử trong vòng có 3, 4 tiếng đồng hồ, với những bản án bỏ túi tiền chế.

Khẳng định rằng pháp quyền XHCN và dân chủ XHCN là ưu việt như trên đây không những là trái với sự thật, thiếu vắng thực tiễn, là giả dối, coi thường và lừa gạt các đại biểu đại hội, mà còn nguy hiểm là tỏ ra hài lòng thỏa mãn với những việc làm sai đã qua, nghĩa là cứ thế mà làm tiếp!

Ở các nước tư bản, không thể có chuyện một công dân đòi dân chủ nhân quyền bằng phương pháp bất bạo động, hòa bình lại có thể bị nhà nước kết tội kiểu vu cáo là có “âm mưu lật đổ chính quyền”. Đó là nền "dân chủ" cưỡng ép, nền tư pháp chà đạp công lý, những phiên tòa nhạo báng pháp luật, là dân chủ ngược đời, mang danh xưng "dân chủ XHCN" và danh xưng "pháp quyền XHCN" thì không làm vẻ vang gì cho CNXH cả!

Nhân đây, xin nhắn với các bạn trẻ chớ bị tác động bởi các tràng vỗ tay trong các đại hội đảng CS. Viết cho sướng tay, đọc cho sướng mồm, được nghe vỗ tay sướng tai, lãnh đạo đọc văn kiện chớ vội mừng. Nhân dân thính tai, sáng mắt hơn nhiều. Tại các đại hội đảng CS ở Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Romania…hồi xưa đều ca ngợi CNXH theo học thuyết Mác-xít, còn dự đoán CNXH Mác-xít sẽ lan rộng ra toàn thế giới, nhưng sau đó tất cả những cương lĩnh XHCN chủ quan, duy ý chí, hoang tưởng ấy đều bị phong trào dân chủ của nhân dân bác bỏ, đến nay không một ai tại đó còn nhắc đến CNXH Mác-xít kiểu độc đảng nữa. Thất bại triệt để chỉ vì những cương lĩnh CNXH Mác-xít ấy không dựa trên những lập luận vững chắc và những cơ sở thực tế của cuộc sống.

Các bạn trẻ hãy có tư duy độc lập, tỉnh táo, sẽ tự tìm ra thêm trong những văn kiện Đại hội XI không ít những luận điểm chủ quan, dễ dãi, giáo điều, không thực tế, thiếu tinh chất khoa học mà nền chính trị hiện đại đòi hỏi.(còn tiếp nhiều kỳ )

No comments:

Post a Comment