Pages

Sunday, September 5, 2010

Hải Quân Mỹ Cứu Tàu Việt Nam vào Cuối Cuộc Chiến

Ngày 30 tháng tư 1975, quân đội Bắc Việt tiến vào các đường phố vắng vẻ của Sài Gòn. Những ciếc xe te tăng đã cán sập cánh cổng dinh tổng thống và những người cán binh treo cờ màu vàng đỏ của Việt cộng.  Chỉ vài giờ trước đó, những người Mỹ cuối cùng đã được sơ tán, cứu thoát bằng những máy bay trực thăng của Thuỷ Quân Lục chiến đến Hàng Không mẫu hạm Mỹ đang chờ ngoài khơi bờ biển. 
Chiến tranh Việt Nam đã chính thức đi qua.  Bây giờ những chiếc tàu hải quân đang đi tỏa ra khỏi Việt Nam.  Nhưng có một ngoại lệ. Đêm đó, thuyền trưởng một khu trục hạm hộ tống nhỏ, chiếc USS Kirk, đã nhận được một mệnh lệnh bí mật phải quay mũi trở lại Việt Nam.
 

Các con tàu Việt Nam đang đi vào Subic Bay theo sự hướng dẫn của chiến hạm Kirk
 
Hải quân Nam Việt Nam: “Chúng ta quên họ rồi” 
Thuyền trưởng Paul Jacobs đã nhận được chỉ thị từ Đô đốc Donald Whitmire, chỉ huy chiến dịch di tản – Operation Frequent Wind. Ông đã xuống tàu USS Blue Ridge, con tàu chỉ huy của hạm đội 7. 
Jacobs nhớ lại thông điệp ngạc nhiên của Whitmire: “Ông ấy nói : ‘Chúng tôi sẽ gửi bạn trở lại để cứu con tàu hải quân Việt Nam. Chúng ta đã quên họ rồi… Và nếu chúng ta không cứu được một số nào hay tất cả, chắc họ sẽ bị giết chết’ “. 
Chiếc Kirk đã được gửi đến một hòn đảo ngoài khơi đất liền Việt Nam – một mình. Và có một điều kỳ lạ hơn, viên đô đốc nói với Jacobs: Anh sẽ nhận đưọc lệnh từ một người thường dân. 
Richard Armitage xuống con tàu Kirk vào đêm khuya, mặc một chiếc áo khoác thể thao đi mượn. Nhiều năm sau đó, Armitage đã trở thành vị chỉ huy đứng thứ hai sau Colin Powell trong bộ Ngoại giao chính quyền Bush. Nhưng chính trong ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975, ông đang ở trong một sứ mạng đặc biệt theo lệnh của bộ trưởng quốc phòng. Tuần đó, ông chỉ mới tròn 30 tuổi. 
Armitage nhớ lại lúc xuống tàu và lập tức được hộ tống đến bữa ăn của các sĩ quan, nơi ông đã gặp Jacobs và Commodore Donald Roane, chỉ huy trưởng đội tàu nhỏ của khu trục hạm Hải quân. 
“Commodore Roane đã nói cái gì đại loại như ‘Người bạn trẻ, tôi không quen với việc có những người dân sự xa lạ lên tàu của tôi giữa ban đêm mà ra lệnh cho tôi”, Armitage nhớ lại. “Tôi nói, ‘Thưa ngài, tôi cũng không quen với việc xuống một con tàu lạ vào nửa đêm để ra lệnh cho ngài. Nhưng hãy chạy nhanh đến Côn Sơn nào…’ Và tất cả đã hành động như thế “. 

Richard Armitage, ân nhân của gần 30 ngàn người Việt Nam trong cuộc cứu mạng cuối tháng Tư/1975
  
Kế hoạch bí mật để không chỉ cứu những con tàu 
Chiếc Kirk và phi hành đoàn của khoảng 260 sĩ quan và nhân sự của nó đã được lệnh đến đảo Côn Sơn, khoảng 50 dặm ngoài khơi bờ biển miền Nam Việt Nam và chưa bị chiếm đóng bởi những người Bắc Việt. Côn Sơn là nơi của một nhà tù khét tiếng. Lúc này, bến cảng của nó là nơi ẩn náu cho những gì còn lại của hải quân Nam Việt Nam. 
Armitage đã đưa ra kế hoạch để cho họ tập trung ở đó. 
Armitage, tốt nghiệp trưòng Annapolis, từng là một sĩ quan tình báo Hải quân, được phân công tác cho các đơn vị Việt Nam. Ông đã đạt được uy tín đối với người Việt Nam khi ông từng làm việc với họ và trở nên thông thạo ngôn ngữ của họ. Sau đó, ông đã từ nhiệm khỏi sứ mạng và lực lượng Hải quân để phản đối chính quyền Nixon đã ký hiệp định hoà bình Paris. Thỏa thuận năm 1973 giữa tất cả các bên tham chiến ở Việt Nam để chấm dứt sự tham dự trực tiếp của quân đội Mỹ trong chiến tranh. Armitage cảm thấy Mỹ đã bán đứng người miền Nam Việt Nam. 
Nhưng khi tình hình trở nên rõ ràng rằng chính phủ miền Nam Việt Nam sắp xụp đổ, một quan chức tại Ngũ Giác Đài đã yêu cầu Armitage bay trở lại Việt Nam với một nhiệm vụ nguy hiểm. Công tác của ông: loại bỏ hoặc phá hủy các tàu hải quân và kỹ thuật công nghệ để không rơi vào tay những người Cộng sản. 
Một vài tuần trước khi Sài Gòn thất thủ, Armitage đã có mặt tại văn phòng của một người bạn cũ, Đại tá Đỗ Kiếm, Phó tư lệnh Hải quân Nam Việt Nam. Cùng với nhau, họ đã đưa ra kế hoạch bí mật để giải cứu các con tàu Việt Nam khi – như đã rõ ràng xảy ra – chính phủ miền Nam Việt Nam đầu hàng. 
Đỗ nhớ lại đã cảnh báo Armitage rằng họ sẽ giải cứu nhiều hơn là chỉ những con tàu. 
“Tôi đã nói với anh ta, tôi nói, ‘Vâng, các phi hành đoàn của chúng tôi sẽ không rời khỏi Sài Gòn mà không có gia đình của họ, do đó sẽ có rất nhiều người dân” Đỗ nhớ lại. 
Ông nói rằng Armitage cứ lặng thinh. “Ông không trả lời có mà cũng không trả lời không. Do đó tôi cứ xem như một sự thừa nhận”, ông nói. 
Armitage đã không báo cho thượng cấp của mình tại Ngũ Giác Đài biết là có những người tị nạn trên tàu. Ông lo sợ chính quyền Mỹ sẽ không muốn giải cứu họ. 
Mặc dù, cả Đỗ cũng như Armitage cũng không thể đoán biết được có bao nhiêu người tị nạn sẽ xuất hiện ở Côn Sơn. 

Hỗn loạn ở đảo Côn Sơn
 
Chiếc Kirk gấp rút băng đêm đi Côn Sơn và đến đảo khi như mặt trời ló dạng vào ngày 01 Tháng năm. Có 30 tàu hải quân Nam Việt Nam, hàng chục tàu thuyền đánh cá và các tàu hàng. Tất cả đều khẳm đầy những người tị nạn, tuyệt vọng để được ra khỏi Việt Nam. 
Những con tàu “đã được nhồi nhét khẳm đầy người”, ông Kent Chipman, vào năm 1975 đã là một thợ máy trợ lực 21 tuổi trong phòng máy của con tàu và hiện nay làm việc tại một nhà máy lọc nước tại Texas đã cho biết. “Tôi không thể xem bên dưới lòng tàu, nhưng ở trên boong người người chặt cứng san sát nhau”. 
Không đếm được chính xác có bao nhiêu người trên những con tàu. Một số tư liệu lịch sử cho rằng đã có đến 20.000 người. Một số khác cho rằng nhiều đến 30.000. Jan Herman, một sử gia của Bộ Y tế Hải quân Mỹ, người ghi lại câu chuyện của con tàu Kirk, đã sử dụng số lượng cao hơn. 
Các kỹ sư của Kirk được gửi xuống một số các tàu thuyền để chúng có thể khởi động. 
“Chúng tơi tả, xấu xí, bầm dập”, ông Chipman nói. “Thậm chí một số con tàu không chạy được, ; họ đã lôi nhau đi. Một số chiếc đã thực sự thách đố với sóng nước. Chúng tôi chuyển người của mình sang những chiếc đang chạy”. 
Một con tàu chở quá khẳm đang bị chìm. Những người trên boong đã nhảy xuống biển. 
Stephen Burwinkel, người lính cứu thương của tàu Kirk – trong ngành Hải quân thường được biết đến như một tử thi bệnh viện – đã lên con tàu ấy để kiểm tra những người đau yếu và bị thương. Ông thấy một trung úy quân đội Việt Nam đang giúp hành khách rời tàu chìm, chuyển họ qua những con tàu khác trên một tấm ván gỗ hẹp. Khi mọi người cố chen đẩy để thoát khỏi con tàu chìm, một người đàn ông đánh ngã một người phụ nữ phía trước anh ta. Cô bị rơi khỏi tấm ván vào lòng đại dương. 
Người phụ nữ đã lập tức được cứu thoát. Nhưng Burwinkel lo lắng rằng những người khác trên tàu sẽ hoảng sợ. Ông cho biết viên trung úy đã hành động nhanh chóng. 
Burwinkel nhớ lại, “Người trung úy Việt Nam này không hề lưỡng tự, ông đến ngay sau anh chàng đó, rút súng ra bắn ngay vào đầu, giết chết anh ta, đá qua một bên. Chấm dứt tất cả các sự cố ngay lúc đó và sau đó “. Cú bắn người thật kinh hoàng, ông nói, nhưng rất có khả năng ngăn chặn được một cuộc bạo loạn. 

Chiến hạm Kirk đến Côn Sơn ngày 1 tháng Năm 1975
 
Dẫn đường đi đến Philippines 
Sau khi sửa chữa những gì có thể sửa được trên những con tàu đủ điều kiện và di chuyển những người từ các con tàu bị bỏ lại, chiến Kirk dẫn đầu đội tàu hải quân, thuyền đánh cá và tàu hàng đi về phía Philippines. 
Chiếc USS Cook, một khu trục hộ tống hạm khác như chiếc Kirk, đã giúp những các con tàu rời khỏi Côn Sơn. Các thủy thủ đoàn của tàu Cook đã cung cấp gạo, và người tử thi bệnh viện của con tàu này cũng đã giúp Burwinkel và các phụ tá của ông từ tàu Kirk đến chăm sóc những người đau yếu và bị thương. 
Theo Herman. khi đội tàu quay đầu ra biển, trên đường đến Philippines, nhiều tàu Hải quân khác đã cùng đến và đi để hộ tống. Trong số những con tàu này có nhũng chiếc USS Mobile, USS Tuscaloosa, USS Barbour County, USS Deliver và USS Abnaki. 
Nhưng rõ ràng từ nhật ký hải hành của tàu Kirk và các tàu khác là các thủ thủ đoàn tày Kirk đã dẫn đầu chỉ đạo. 
“Đối với tôi, chiếc Kirk thật lý tưởng”, ông Armitage, người đã chuyển từ tàu Kirk sang một chiếc tàu chỉ huy của hải quân Việt Nam. “Nó có thể lên lạc với các tàu còn lại của hạm đội Mỹ. Nó sẽ đi với chúng tôi nang qua tới Philippines và có thể cứu bất cứ ai có thể bị hiểm nguy. Một số người đã bị thương. Một số mang thai. Tất cả đã đều đau yếu khá lâu. Và chúng ta cần một phương cách để có thể chăm sóc những người này”. 
Các thủy thủ của Kirk bận rộn cung cấp nước uống, thức ăn và thuốc men cho những người trên các con tàu của miền nam Việt Nam. 
Burwinkel đã bỏ thì giờ di chuyển từ tàu này sang tàu khác để điều trị những người bị thưong và đau yếu. Với cả hàng ngàn người – đa số là trẻ sơ sinh và trẻ em – ông đã làm việc gần như không nghỉ. 
“Khi họ đã trao tôi tấm huy chương thành tích vì tất cả các công việc này, tôi khá thẳng thắn gọi nó là tấm huy chương không ngủ” của mình, “ông Burwinkel, người đã tạo nên một sự nghiệp trong ngành Hải quân, hiện đang nghỉ hưu và sinh sống tại Pensacola, Fla. “Tôi đã đến đấy và thực hiện những công việc của mình trong đêm đen, trở về tàu Kirk cố gắng tìm được một chút gì để ăn và trở lại làm việc thêm vài chuyến nữa – thu thập hiểu biết, tiếp tế cho bản thân mình và lại sẵn sàng cho ngày hôm sau “.
 

Một chiếc tàu đưa những người tị nạn VN đến chiến hạm Kirk
 
“Lãnh thổ chủ quyền cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa” 
Trong 30.000 người tị nạn trên những con tàu được hộ tống bởi chiếc Kirk suốt sáu ngày, chỉ có ba người tử nạn. 
Nhưng khi đội tàu nhỏ của Việt Nam tiếp cận Philippines, viên thuyền trưởng tàu Kirk đã nhận một số tin xấu. Sự hiện diện của những con tàu miền Nam Việt Nam tại một cảng Philippine sẽ mang đến cho chính phủ ở Manila một tình thế khó khăn về ngoại giao. 
“Chính phủ Philippines đã không cho phép chúng tôi vào cảng, dứt khoát như thế, bởi vì những con tàu giờ đây thuộc về người Bắc Việt và họ không muốn xúc phạm đến đất nước mới”, Jacobs, viên thuyền trưởng, đã nhớ lại. 
Chính phủ Philippines, tổng thống Ferdinand Marcos là một trong những người đầu tiên nhận ra được rằng những nhà cai trị cộng sản hiện nay đang kiểm soát một nước Việt Nam duy nhất, và Jacobs được lệnh là các con tàu nên trở về. 
Armitage và Đại tá Đỗ, người bạn miền Nam Việt Nam của mình đã đưa ra một giải pháp mà Marcos đã phải chấp nhận. 
Đỗ nhớ lại kế hoạch: “Chúng tôi sẽ nâng quốc kỳ Mỹ lên cao và hạ cờ Việt Nam xuống như một dấu hiệu [chuyển nhượng] con tàu trở về với Hoa Kỳ, bởi vì trong chiến tranh những con tàu này được trao cho chính phủ Việt Nam như một một khoản vay mượn từ Hoa Kỳ , nếu họ muốn để chống lại những người Cộng sản. Bây giờ chiến tranh kết thúc, chúng ta mang chúng trở về với Hoa Kỳ “. 
Đã có một cuộc tìm kiếm điên cuồng để tìm cho ra 30 lá cờ Mỹ. Hai sĩ quan từ tàu Kirk đã được gửi đến trên boong mỗi tàu biển Việt Nam để chỉ huy sau một buổi lễ hạ cờ chính thức. 
Rick Sautter là một trong những sĩ quan của tàu Kirk đã chỉ huy một tàu Việt Nam. 
“Đó là di tích cuối cùng của miền Nam Việt Nam. Khi những lá cờ hạ xuống và những lá cờ Mỹ dương lên, thế là hết. Bởi vì một con tàu của Hải quân chính là chủ quyền lãnh thổ, do đó đấy chính là các chủ quyền lãnh thổ cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa”, ông nói. 
“Hàng ngàn và hàng ngàn người trên thuyền bắt đầu hát quốc ca (miền nam Việt Nam). Khi lá cờ hạ xuống, họ đã khóc, khóc và khóc,” Đỗ nhớ lại. 

Đỉnh Cao Sự nghiệp của tôi”
 
Ngày 07 tháng Năm, các tàu mang cờ Mỹ được phép vào Subic Bay. 
Đối với những người tị nạn, đó chỉ là khởi đầu cuộc hành trình dài của họ, một cuộc hành trình đã đưa họ đến Guam, sau đó tái định cư tại Hoa Kỳ. 
Đối với các thủy thủ tàu Kirk, kết thúc chiến tranh Việt Nam bằng cách giải cứu 20.000 đến 30.000 người là rất thỏa mãn. 
“Đây là đỉnh cao của sự nghiệp của tôi và tôi rất tự hào về những gì chúng tôi đã làm, những gì chúng tôi đã hoàn thành và làm thế nào mà chúng tôi thực hiện được những điều đó”, Jacobs nói. “Tôi cảm thấy như chúng tôi đã xử lý thật chuyên nghiệp và đó là một giờ khắc như thể thật tối tăm”. 
Armitage nói rằng ông “ghen tỵ” với các sĩ quan và nhân sự của con tàu USS Kirk. Con tàu đã không gặp chiến trận trong chuyến đi Việt Nam của nó. Nhưng đã kết thúc với việc cứu mạng hàng chục ngàn người tị nạn, một trong những nhiệm vụ nhân đạo lớn nhất trong lịch sử của quân đội Mỹ. 
Armitage nói: “Họ đã không phải chịu gánh nặng với các thảm kịch bất ngờ trước đây của Việt Nam.” 

Joseph Shapiro và Sandra Bartlett, NPR
Lê Quốc Tuấn
, chuyển ngữ

No comments:

Post a Comment