Trong một cuộc phỏng vấn của đài BBC khi ông cùng soái hạm USS Blue Ridge của ông ghé Hongkong, Phó Ðô Ðốc Scott Van Buskirk cho hay Hải quân Mỹ đã cử nhiều phái đoàn tới Việt Nam để thuyết phục Việt Nam tập trận chung như trong khuôn khổ các hoạt động Phối Hợp Sẵn Sàng Chiến đấu và Huấn Luyện Trên Biển gọi tắt là CARAT (Cooperation Float Readiness and Training).
Ông nói một phái đoàn Mỹ mới tới Việt Nam gần đây để thảo luận việc diễn tập chung và các chương trình thăm viếng của chiến hạm Mỹ trong tương lai.
Hoa Kỳ từng có nhiều cuộc diễn tập chung với nhiều nước Ðông Nam Á mà năm ngoái có một cuộc diễn tập chung CARAT mà Cam Bốt tham gia lần đầu tiên.
Tuần trước, Thứ Trưởng Quốc Phòng CSVN Nguyễn Chí Vịnh nói trong một cuộc phỏng vấn của báo Quân Ðội Nhân Dân rằng “Việt Nam chưa nhận được lời mời tham gia tập trận CARAT của Hoa Kỳ tại khu vực một cách chính thức.” Và ông còn nói thêm rằng “cho đến thời điểm này Việt Nam không tham gia các cuộc diễn tập quân sự”.
Ông cũng phủ nhận Việt Nam gửi 3 sĩ quan đến quan sát hay tham gia tập trận Hổ Mang Vàng 2011 tổ chức ở Ðông Bắc Thái cùng với Hoa Kỳ, Thái Lan và một số quốc gia khác khai diễn từ ngày 7 đến 18 tháng 2, 2011.
Ngày 7 tháng 11 năm 2009, soái hạm USS Blue Ridge cùng với khu trục hạm USS Lassen do một hạm trưởng gốc Việt, Trung Tá Lê Bá Hùng, đã cập cảng Tiên Sa ở Ðà Nẵng trong một cuộc thăm viếng được dư luận rất chú ý.
Trong bài diễn văn đọc tại “Hiệp Hội Á Châu” ở Hongkong ngày 21 tháng 1, 2011 ông Van Buskirk nói rằng Hải quân Hoa Kỳ đã duy trì sự hiện diện liên tục ở khu vực. Hiện lực lượng hải quân Hoa Kỳ, qua Hạm đội 7 được tăng cường mạnh mẽ và tối tân hơn bao giờ hết, từ số lượng đến phẩm chất và khả năng tác chiến.
Bài diễn văn của ông cũng kể ra lần đầu tiên có sự tập huấn chung giữa hải quân Mỹ và Hải quân Việt Nam kể từ thời chiến tranh đến nay, cùng sự sử dụng cơ sở của Việt Nam để sửa chữa tàu chiến.
Ðầu tháng 8 năm ngoái, nhân dịp đánh dấu Việt Nam và Hoa Kỳ kỷ niệm 15 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, một chiến hạm Hoa Kỳ ghé cảng Tiên Sa, Ðà Nẵng và hàng không mẫu hạm nguyên tử USS George Washington đi ngang Ðà Nẵng có mời một số quan chức Việt Nam xuống thăm viếng. Tướng lãnh và bình luận gia báo chí của Bắc Kinh nhao nhao lên bình luận, đe dọa.
Trước những sự phản ứng của Trung Quốc, Hà Nội đã tỏ ra thận trọng và tránh né những hành động hay tuyên bố có thể làm Bắc Kinh khó chịu cho dù Bắc Kinh vẫn có các hành động khiêu khích.
Tuần trước, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Hà Nội, bà Nguyễn Phương Nga, phản đối Trung Quốc tổ chức tập trận ở khu vực Hoàng Sa, quần đảo Việt Nam vẫn tuyên bố chủ quyền không thể tranh cãi dù đã bị Hải quân Trung Quốc cướp đoạt từ tháng 1, 1974.
Tháng 8 năm ngoái, Trung Quốc tập hải quân trận qui mô trên biển Ðông chỉ 3 ngày sau khi bà Ngoại Trưởng Mỹ Hillary Clinton tuyên bố trong Hội Nghị ASEAN Mở Rộng rằng Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia trên biển Ðông và sẵn sàng đóng góp giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ của các nước trong khu vực.
Ðối lại các hành động khiêu khích biểu lộ chủ đích bá quyền nước lớn của Bắc Kinh nhằm đe dọa và áp lực Việt Nam, Hà Nội vẫn rất thận trọng tránh né dù chỉ là những cuộc tập huấn nhỏ bé với lực lượng Mỹ.
-------------------
Suốt trong chiều dài lịch sử Việt Nam chưa có một triều đại cầm quyền nào mà hèn hạ khiếp nhược như chế độ nô lệ thuộc địa của cộng sản VN hiện nay. Thật nhục nhã cho dân tộc VN
-------------------
Sợ Trung Quốc, CSVN “phủ nhận” tin tham dự tập trận ‘Hổ Mang Vàng’ với Mỹ
Bản tin phủ nhận Việt Nam tham dự tập trận ‘Hổ Mang Vàng’ trên báo Quân Đội Nhân dân điện tử hôm 9 tháng 2, 2011. Ảnh: NV
HÀ NỘI – Bộ Quốc Phòng Cộng sản Việt Nam vừa lên tiếng phủ nhận tin quân đội nước này cử 3 đại diện tham dự cuộc tập trận mang tên ‘Hổ Mang Vàng’ (Cobra Gold) do quân đội hoàng gia Thái Lan và quân đội Hoa Kỳ tổ chức, với nhiều quốc gia trong vùng Đông Nam Á tham gia.
Lời phủ nhận được loan tải trên tờ Quân Đội Nhân Dân, tiếng nói chính thức của Bộ Quốc Phòng CSVN, hôm 9 tháng 2, 2011.
Bản tin trên tờ Quân Đội Nhân Dân điện tử viết, ‘Vừa qua, một số báo điện tử của Việt Nam dẫn nguồn tin từ các hãng tin và báo ngoài nước rằng Việt Nam cử đại diện tham gia cuộc tập trận Hổ Mang Vàng 2011 tại Thái Lan. Xác định tính chính xác của thông tin này, báo Quân đội nhân dân điện tử đã liên hệ và nhận được trả lời từ phía Bộ Quốc phòng Việt Nam, khẳng định Việt Nam không tham gia cuộc tập trận này.’
Tuy nhiên, tờ báo không cho biết ai là người đại diện Bộ Quốc Phòng Việt Nam ‘khẳng định Việt Nam không tham gia cuộc tập trận.’
Điều đáng nói là cách đây hai hôm, cũng chính tờ Quân Đội Nhân Dân điện tử đã cho đăng lại bản tin của Thông Tấn Xã Việt Nam nói rằng, ‘Việt Nam cử 3 đại diện tham dự cuộc tập trận mang tên ‘Hổ Mang Vàng’, nhưng nay bản tin đã được gỡ bỏ.
Cuộc tập trận ‘Hổ Mang Vàng’ 2011, có 7 quốc gia chính tham dự với khoảng 14 ngàn sĩ quan và binh lính, máy bay, xe tăng, trang bị điện tử tham mưu hành quân, gồm Thái Lan, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Singapore và Malaysia, kéo dài chính thức từ ngày 7 tháng 2 đến ngày 18 tháng 2, 2011.
Bản tin Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) hôm Thứ Hai 7 tháng 2, 2011 viết, ‘Các nước Australia, Canada, Pháp, Italy, Anh, Bangladesh, Campuchia, Nepal, Philippines và Việt Nam mỗi nước cử ba đại diện tham dự cuộc tập trận.’
Nay thì bản tin này đã được hầu hết các báo điện tử trong nước thay bằng bản tin phủ nhận của báo Quân Đội Nhân Dân.
Tưởng cũng nên nhắc lại là, Thông Tấn Xã Việt Nam là hãng thông tấn chính thức của nhà nước Việt Nam, nơi cung cấp hầu hết các tin thuộc loại chính trị và quốc phòng (được nhà nước cho phép) cho hơn 600 tờ báo các loại và hàng trăm đài phát thanh truyền hình do nhà nước quản lý.
Hồi năm ngoái, các bản tin trên hệ thống báo chí ở Việt Nam có loan tin cuộc tập trận Hổ Mang Vàng 2010 nhưng không nói gì đến sự hiện diện của Việt Nam. Năm trước đó, Thông Tấn Xã Việt Nam có nói Việt Nam cử quan sát viên.
Việt Nam được mời tham dự các cuộc tập trận Hổ Mang Vàng từ lâu nhưng tránh né và mới chỉ hiện diện tượng trưng mấy năm gần đây. Sự tham dự của các lực lượng quân sự Việt Nam ở cuộc diễn tập này trong bối cảnh tranh chấp lãnh thổ lãnh hải với Trung Quốc không thể không tạo ra các nghi ngờ từ Bắc Kinh.
Năm ngoái, khi một chiến hạm Hoa Kỳ ghé Ðà Nẵng diễn tập cứu hỏa cứu nạn trên biển với hải quân CSVN cùng một thời gian với hàng không mẫu hạm USS George Washington đi ngang Ðà Nẵng mới một số viên chức CSVN xuống thăm, tướng lãnh và bình luận gia báo chí Bắc Kinh đã lớn tiếng đe dọa.
Nguồn: Người Việt
Ngày đầu xuân, cụ Nguyễn Trọng Vĩnh nhận xét Cù Huy Hà Vũ
Phạm Toàn
“… những băn khoăn, những ưu tư của Vũ, là những băn khoăn và những ưu tư của mọi người, được Vũ nói hộ ra đấy thôi …”
Nguyễn Trọng Vĩnh
Ngày 13-1-2011, đúng một năm sau ngày cơ quan an ninh triệu tập thẩm vấn và lục soát ổ cứng máy tính của GS Nguyễn Huệ Chi, người trực tiếp điều hành trang mạng Bauxite Việt Nam (kéo dài trong 22 ngày), Ban biên tập BVNLời khuyên chân tình dưới hình thức thư ngỏ gửi đến các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước về việc bắt giam Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ. Lá thư ngỏ này sau đó đã được loan tải trên nhiều trang mạng, được đông đảo bạn đọc nhiệt liệt hoan nghênh, có người gửi thư hoặc gọi điện đến đề nghị in thành nhiều bản gửi thẳng lên các vị cầm quyền. Trong lần thẩm vấn người điều hành BVN một năm trước, rất nhiều người cả trong và ngoài nước, đã hết sức quan tâm lo lắng cho số phận người bị thẩm vấn cũng như số phận trang BVN, trong đó có không ít các nhà lão thành cách mạng khắp từ Nam đến Bắc. Nay, việc TS Cù Huy Hà Vũ bị bắt đã gây phản ứng thế nào trong dư luận? Nhân dịp du xuân đầu năm Tân Mão, nhà giáo Phạm Toàn đã vui chân đến gặp cụ Nguyễn Trọng Vĩnh, đàm đạo với cụ về nhiều chuyện vui buồn ngày xuân, nhân đó nhà cách mạng 95 tuổi đời nhưng vẫn hết sức minh mẫn đã có dịp nói lên vài ý kiến của mình về “sự cố” Cù Huy Hà Vũ mà tinh thần người nghe chuyện nắm được, theo cụ, là một việc “không hay”. BVN xin trân trọng công bố dưới đây những ý kiến trong cuộc mạn đàm với sự đồng ý của cụ, cũng coi như một lời chúc mừng đầu xuân của BBT chúng tôi gửi tới con người kiên cường Cù Huy Hà Vũ. đã có mộtBauxite Việt Nam
Đầu xuân năm ngoái, tôi làm việc đến mồng 7 thì mệt quá, quyết định rời bàn làm việc đi chơi. Tình cờ, thành ra đi thăm một anh chết vợ (nhà văn Văn Linh), sau đó rủ anh cùng đi thăm một chị chết chồng (nàng dâu Nga ở Việt Nam, nhà phê bình nghệ thuật Natalia Kraevskaia) thế rồi sau đó hai anh em rủ nhau qua thăm một nhà thơ sắp chết, anh Hoàng Cầm.
Đầu xuân năm nay, làm việc suốt mấy ngày Tết đã khá mỏi, đến chiều mồng 5, tôi bỗng muốn tới thăm một dạng người già kiểu dáng một ông giáo làng khù khì… Thế rồi bước chân vô định ngày xuân bỗng đưa tôi tới nhà riêng của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh.
Chúng tôi nói chuyện này chuyện nọ. Thế rồi cũng giống cái quả táo của cụ Newton bị trong lực của trái đất hút, câu chuyện của chúng tôi rồi bỗng dưng cũng quay về mấy đề tài cả nước đang xì xào. Một trong những đề tài ấy:
- Thưa bác, bác có biết chú Cù Huy Hà Vũ không?
- Có, năm ngoài anh ấy có tới thăm tôi ở nhà này. Tôi biết ông Cù Huy Cận nhiều hơn… Anh ấy đứng đắn, dễ mến… Tôi rất kính trọng anh Cù Huy Cận…
- Bác nghĩ gì về những “hoạt động” của chú Vũ?
- Nó thế này… Những băn khoăn, những ưu tư của Vũ cũng là những băn khoăn và ưu tư của mọi người. Mọi người đều nghĩ, còn Vũ thì đã nói ra được những điều đó. Vũ không nói, thì người khác cũng nói. Vì đó là những điều hiện thời mọi người lo lắng cho đất nước.
- Bác thấy các bài viết của Vũ như thế nào?
- Tôi không đọc hết cả được. Những gì đã đọc thì tôi thấy Vũ nói đúng. Chỉ có điều là nó thật quá đi. Nói thật như vậy, nhưng không chống phá nhà nước, chống phá nhân dân. Những điều Vũ nói có dính dáng tới một ông Thủ tướng, tới một vài vị lãnh đạo của nhà nước. Nhưng một ông Thủ tướng không phải là tất cả nhà nước, và vài ba vị lãnh đạo cũng không phải là tất cả nhà nước… Trong các “hoạt động” của Vũ có chuyện chú ấy kiện ông Thủ tướng. Nhưng kiện ông Thủ tướng không có nghĩa là chú ấy kiện nhà nước…
- Nhưng có khi về chuyện tham nhũng, nghe chừng chú ấy lại khen chính quyền Sài Gòn trước đây?
- Tôi thì lại thấy chú ấy nói đúng ở điều này: ngày trước chính quyền Sài Gòn tham nhũng là họ ăn cắp viện trợ Mỹ, đó là tiền Mỹ, chứ đó không phải là mồ hôi và công sức của người Việt Nam. Còn của ta bây giờ, ai giàu lên nhờ bán chác đất đai, nhờ ăn hối lộ, nhờ bán rừng và tài nguyên… thì đó là giàu lên nhờ ăn cắp tài sản của dân tộc Việt Nam này… Tôi lại cho là ý đó đúng!
- Nhưng mà chú ấy lại nói cả đến đa nguyên đa đảng?
- Luận điểm của Vũ rằng có đa nguyên đa đảng mới có dân chủ thì đó là ý nghĩ của chú ấy. Chú ấy cũng nói nước ta nếu không thực hiện được tam quyền phân lập thì không có dân chủ. Đó cũng là nhận xét của chú ấy. Ai thấy điều chú ấy nói ra là nói sai thì bẻ. Nhưng việc bắt chú ấy chỉ là việc răn đe giới trí thức. Vì chỉ có giới trí thức mới lên tiếng, vì đã có nhiều nghìn người trí thức ký tên vào các kiến nghị, vì có nhiều người trí thức tuy không ký tên nhưng cũng lên tiếng phê phán hoặc phản biện… Nhưng nên nhớ là việc các người trí thức lên tiếng phản đối, tố cáo, chất vấn này khác không phải là họ chống lại ai cả. Ký kiến nghị sau khi bùn đỏ bô-xít ở Hungary vỡ toang chảy tràn, là chống lại việc khai thác bô-xít bừa bãi chứ đâu phải là chống lại ông Thủ tướng hoặc chống lại nhà nước?
- Bác cũng viết… cũng ký…?
- Có chứ! Tôi viết nhiều! Những bài tôi cho đăng chỉ là số ít. Tôi thấy mình phải viết chứ. Tại vì những bất cập đã quá rõ. Giao thông thiếu thốn và mắc kẹt liên miên. Giải pháp bị động trước lũ lụt. Nông dân thì thiếu thốn triền miên. Rừng bị phá tan hoang… Rồi tham nhũng và thiếu dân chủ… Tôi viết chứ! Tôi viết, tôi gửi tới các ông trong Bộ Chính trị, tôi gửi tới các cơ quan nhà nước… Ngay hôm kỷ niệm ngày thành lập quân đội, tôi viết thư nhắc nhở ngay là tại sao không nhắc đến Đại tưởng Võ Nguyên Giáp. Tôi nhắc nhở cả chuyện phải có kế hoạch làm quốc tang nếu Đại tướng qua đời. Đó là chuyện đạo lý của Dân tộc ta. Tôi viết chứ!
- Bác có được trả lời không?
- Không. Chưa bao giờ có trả lời cả. Chỉ có mới đây anh Trương Tấn Sang tới thăm tôi ở nhà này, cũng ngồi đúng chỗ bác đang ngồi bây giờ ấy, anh Sang bảo tôi là Đại tướng đang còn sống mà nói chuyện tang lễ thì bất tiện, nhưng chắc là thế nào rồi cũng phải bàn việc đó… Anh Sang cũng dặn tôi là hễ viết thì viết nhưng đừng đưa đăng lên các trang mạng… Tôi bây giờ sức khỏe cũng kém rồi. Trước đây đi bộ dài hơn mấy vòng quanh hồ, bây giờ chỉ đi một nửa… Nên cũng sốt ruột phải đăng nhanh chứ? Nhưng bác thấy đấy, tôi đăng rất ít. Đâu có đăng nhiều? Chỉ đăng một phần rất nhỏ các ý kiến của tôi thôi.
Tôi nói đùa, tính tôi thích đùa, nghiêm túc cả buổi trò chuyện rôi, tôi ghé thêm vào ý bác:
- Đâu có khỏe như Cù Huy Hà Vũ?!
Vị lão tướng chín mươi lăm tuổi không nói gì, chỉ lẳng lặng đứng lên lấy mấy bài thơ mới làm ra đọc cho tôi nghe. Đó là mấy bài thơ khai bút đã đăng trên mấy trang mạng, sớm nhất là mạng của anh Trần Nhương và anh Nguyễn Xuân Diện. Thơ của bác mộc mạc: HỎI – NHẮC – NHẮN Hỏi những quan tham lại nhũng / làm giàu chết có mang đi? Nhắc kẻ nắm quyền hống hách / Nhớ chăng quan chỉ một thì? Nhắc kẻ độc tài độc đoán / Trên đời từng có Hít-le. Nhắn kẻ ba hoa dối trá / Tô hồng dễ mấy ai nghe?!
Trước khi ra về, tôi hỏi bác:
- Nếu tôi viết lại và công bố những điều bác vừa trao đổi, tôi có cần đưa bác duyệt không?
- Không cần. Tôi tin bác.
Xuân Tân Mão này, có lẽ món quà mừng tuổi vĩ đại nhất tôi nhận được là câu nói ngắn gọn đó: Không cần, tôi tin bác. Xin có lời kính chúc lại bậc đàn anh hơn tôi mười lăm tuổi đời và hơn tôi một đời chinh chiến ở những cương vị tôi không sao với tới được, xin kính chúc niềm tin đôn hậu của bác Nguyễn Trọng Vĩnh!
Hà Nội, đêm 07-02-2011
Nhưng chuyện đáng ghi nhớ có lẽ lời khước từ không có thì giờ đi họp báo và sau đó trở thành lời khuyên của Trần Đệ, chủ nhiệm tuần báo VTimes: “Đừng nên dính dấp, sa đà vào nhiều chuyện phức tạp của cộng đồng!” Và cũng xin thưa, có bao giờ tôi được ai nhận mình là một người của cộng đồng San José đâu? Có lẽ vì vậy nên hôm đó Vũ Khang của Việt Weekly lớn tiếng gạn hỏi muốn biết tôi là ai, viết cho báo nào!
Đúng ra chuyện tôi muốn bàn tới đây là chuyện tình cờ gặp những nhân vật đáng ghi nhớ ở Việt Nam rồi sự việc tuần tự diễn biến đưa đến chuyện gặp gỡ họ ở San José trong hôm chủ nhật vừa qua. Ở Sài Gòn, tôi tình cờ gặp ông đại biểu Quốc hội, nhà văn, nhà báo và sử gia Dương Trung Quốc nơi nhà hàng và khách sạn Lotus qua sự giới thiệu của chủ nhân. Sau đó được biết ông sẽ sang Cali thăm gia đình đúng khoảng thời gian tôi về Mỹ nên hẹn sẽ gặp lại. Thứ Sáu – thứ Bảy, hai ngày cuối tuần ở Mỹ vừa qua, liên lạc nhau qua điện thoại di động, nhưng không gặp vì chương trình du ngoạn của ông Quốc quá khít khao.
Bùi Tín và Dương Trung Quốc
Chiều Chủ nhật được tin bác Bùi Tín ở Paris sang chơi thăm gia đình, tôi ghé nhà anh Quang ăn mừng sinh nhật thứ 85 của bác. Cùng lúc anh Quốc đi chơi San Francisco về gọi điện đi động mời tôi sang nhà bà dì dùng cơm. Nghe tin có Dương Trung Quốc ở San José, bác Bùi Tín chào hỏi anh qua điện thoại. Sau đó anh Quốc cho người nhà chỉ đường tôi đến nhà anh chơi. Vì tôi đã dùng cơm rồi, nên khi đến nơi chúng tôi ngồi salông nói chuyện với nhau. Dương Trung Quốc năm nay 65, thua ông Bùi Tín 20 tuổi, là một người tốt tướng da dẻ hồng hào, tóc bạch kim. Ông Bùi Tín 85, già yếu hơn, nhưng vẫn tinh tường, sắc sảo và khoẻ mạnh, tuy đi đứng có phần chậm hơn những năm trước. Hai người cùng phục vụ trong guồng máy nhà nước vào hai thời điểm khác nhau, hai vai trò khác nhau.
Dương Trung Quốc đang ở cuối nhiệm kỳ thứ hai trong vai đại biểu Quốc hội, ông Bùi Tín đã thôi vai Phó Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân 20 năm nay. Điều khác biệt: một người còn trong guồng máy, một người đã ra khỏi. Một người lên án mạnh mẽ chế độ. Một người nhẹ nhàng hơn. Lý do dễ hiểu. Trong khi tôi lại ao ước ngược đời: người tại chức trong nước sẽ ăn nói mạnh bạo hơn, người ngoài nước bày tỏ thái độ từ tốn hơn.
Không hiểu có phải vì bản tính triết học hay do làm một đại biểu Quốc hội (tuy không là đảng viên), mà ông Quốc ăn nói lặng lẽ, khoan thai hơn. Trong khi người ở ngoài không hiểu do tuổi già chồng chất hoặc do không thấy ánh sáng le lói ở đường hầm mà trở nên gay gắt hơn. Nghe hai cách nói chuyện của hai ông, tôi không biết cảm phục tánh ngoại giao của anh Quốc hay tánh không cả nể của ông Bùi Tín hơn.
Buổi chiều trước khi sang nhà bà dì của ông Quốc, tôi ngồi nghe ông Tín bàn với các đàn anh (của tôi) về tình hình chính trị trong nước, sự đã rồi của đại hội XI Đảng, chuyện anh Cù Huy Hà Vũ, không khí hào hứng hơn khi ông Tín kể chuyện tiếp thu 16 tấn vàng của miền Nam và ai quản lý số tài sản kếch sù ấy, cũng như cách quyết định nhân sự của đại hội Đảng kỳ VI vào giờ phút chót, v.v..
Trên xe riêng với bác Tín, tôi hỏi ông có muốn về Việt Nam thăm gia đình không vì nghe bác kể có người trong Sứ quán, giữ trọng trách về khâu visa đã thông tin cho ông biết là họ sẵn sàng cho ông về: “Anh cứ về thoải mái… viết như vậy đã đủ rồi, trong nước có nhiều người, nói và viết còn mạnh hơn anh” Đương nhiên cảm nhận được thông điệp của nhà nước nên tôi thiển nghĩ ông Tín cũng phân vân trong chuyện về hay không về. Trong khi đó khi hỏi chuyện với anh Quốc, anh góp ý: “Tôi đã từng rất phục ngòi bút của Bùi Tín khi anh còn là Thành Tín thời chiến tranh… Anh Bùi Tín tuổi đã cao rồi nên về Việt Nam vui thú với con cháu… và chứng kiến thế sự…” Trong khi đó có nhiều người ở hải ngoại cho rằng chuyện về nước là đầu hàng Cộng sản.
Vốn là một người sinh sau đẻ muộn, không can dự vào cuộc nồi da xáo thịt vừa qua nên có lẽ mức chịu đựng của tôi cao hơn những người đã bị mất mát quá nhiều trong cuộc chiến và hệ quả của nó. Cho nên những khi về Việt Nam trước tiên tôi thích tìm gặp những tâm hồn cao thượng, sau là tìm hiểu những người sống trong lòng chế độ, kể cả những người bị gán cho nhãn-mác Việt Cộng.
Ngay cả tôi, một người từ nhỏ đến lớn không bao giờ bị mê hoặc, ưa thích hay tin vào chủ nghĩa Cộng sản, cũng đã từng bị gán cho cái mác thân Cộng! Thật tình mà nói nếu như chuyện tìm hiểu, bắc được một nhịp cầu tri âm, thông cảm giữa người Việt trong và ngoài nước nhằm tô đắp cho một Việt Nam tươi sáng hơn, nhân bản và công bằng hơn thì có gán cho tôi 1.000 cái mác “thân Cộng” tôi cũng không màng!
Điều quan trọng đối với tôi là chuyện tìm về nhân cách của con người, cũng như lối hành xử tử tế và đạo đức của mỗi cá nhân – vốn là bản tính thuần Việt – và làm thế nào để khôi phục lại những đức tính này trong khi một số đông đang bị cuốn kéo trong nếp sống ồ ạt của kinh tế thị trường theo định hướng – không phải là xã hội chủ nghĩa – mà là cá lớn đớp cá bé, mackeno, sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi mới chính là vấn đề.
Đương nhiên, đây là một ao ước huyễn hoặc, một chuyện khó khăn trong một xã hội đang giằng co trong thế tranh tối tranh sáng, nhá nhem giữa văn minh và lạc hậu, giữa tiến bộ toàn cầu hóa của nhân văn và tụt hậu cục bộ của Mácxít-Lêninnít, cấp tiến và chậm tiến trong thế kỷ 21 này. Có phải Việt Nam đang bị trì trệ nhưng vẫn cố vươn lên giữa cái thiện và cái ác, giữa đạo đức và vô luân, đàng hoàng và tạm bợ, mà kết quả là sự kết hợp quái quỷ giữa hai thái cực tác hại nhất của Tư bản và Cộng sản?
Tuy thế, nan đề của Việt Nam không chỉ nằm ở cội rễ của những đảng viên Cộng sản chuyên chính, tham quyền cố vị, không chịu cải thiện, không biết đặt ưu tiên cho sự tồn vong của đất nước lên trên sự trục lợi của cá nhân và đảng phái, mà nó còn tồn tại nơi sự ù lì của dân tình, dai dẳng chịu đựng những chuyện trái tai gai mắt, những chuyện nửa vời, vá víu và tạm bợ trong cuộc sống, chối bỏ chuyện liên đới trách nhiệm và tư cách công dân của mình chỉ vì bao năm nay họ đã được Đảng nhận lãnh trách nhiệm sở hữu đất nước thay cho họ rồi.
Nói như vậy không phải không có những gương sáng trong Đảng, trong dân chúng. Ở đây ta chưa cần nói đến những nhân vật nổi cộm như luật sư Cù Huy Hà Vũ và Lê thị Công Nhân, linh mục Nguyễn Văn Lý, hòa thượng Thích Quảng độ, v.v. và v.v. Có nhiều cá nhân – bất chấp những chuyện bất cập chung quanh – vẫn âm thầm có những cố gắng giữ lấy nề nếp trong gia đình, trong cuộc sống, làm những chuyện hữu ích cho xã hội. Về Việt Nam tôi đã gặp những trường hợp điển hình đó.
Những con người đạo đức
Tạ Duy Anh
Một hôm ở Hà Nội đang ngồi café, nói chuyện với nhà văn Tạ Duy Anh bỗng điện thoại di động reo:
“Xin lỗi anh Thái Anh nhé, thằng con nhà em nó gọi”. Duy Anh áp di động vào tai: “Làm bài vở xong rổi à? Đúng thế phải không?… Có cần bố giúp gì không? Không à? Được… Mày gỉỏi nhỉ… Ừ, xem TV một tiếng thôi nhé, rồi lo tươm tất nhà cửa… Thế nhé!”
“Mình phục thật, trong khi học đường ngày nay đầy dẫy những chuyện ma-le dối trá, thì con trai Duy Anh ở nhà một mình, cứ việc coi TV, cần gì gọi điện xin phép bố? Bố không biết thì đã sao! Anh rất đỗi ngạc nhiên, phục cách giáo dục con của em sát đất!”
“Nhiều lúc cô nói hay xử sự điều gì nó không cho là đúng, nó cũng về kể lại, hỏi em.” Tôi gục gặc đầu, cảm phục.
Chuyện Bé Cún, cháu ngoại của đạo diễn Trần Văn Thủy
Khi ở Hà Nội tôi được hân hạnh tá túc ở nhà anh Trần Văn Thủy dăm mười ngày. Hai vợ chồng anh có một đứa cháu ngoại tên Cún rất dễ thương và xinh xắn. Đối với một đứa bé 8 tuổi, nó thật là đằm thắm, đáo để và sâu sắc.
Một hôm Cún đi học về, ngồi trong lòng bà ngoại ngoan ngoãn như một con mèo con. Bà yêu cháu, ôm Cún vào lòng dặn dò, khuyên bảo cháu đủ điều, nào là:
“Cún phải ngoan này, Cún phải chăm học này, Cún phải thuộc bài này, phải nghe cô giáo giảng dạy này, Cún phải chịu khó này…”
Bé Cún ngồi im trong lòng bà nghe bà dặn dò thắm thiết nhưng lại im như thóc, chẳng thèm vâng dạ, ừ à chi cả. Chốc sau bà ra bếp làm cơm. Cún ở góc phòng hí hoáy, nắn nót viết những dòng chữ gì đó trên bảng. Một lúc sau Cún nói rất to:
“Này bà ơi!”
Bà quay lại hỏi: “Gì, cháu bảo bà cái gì?” Cún chỉ lên bảng: “Bà đọc đi!” Bà nheo mắt lẩm bẩm đọc những dòng chữ đều đặn Cún viết trên bảng: “Trên con đường đi đến sự thành công không có dấu chân của những kẻ lười biếng!” Rồi nó tỉnh bơ chẳng nói thêm câu gì nữa. Cũng như thế, một hôm không nhớ nó đòi mua hay bà nó hứa hẹn mua cho nó một cái gì. Bẵng đi vài ngày, có lẽ bà đã quên. Cún lại chỉ lên bảng bảo: “Bà! Đọc đi!” Bà lại nheo mắt để đọc những dòng chữ rất nắn nót: “Nói thời phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay.” Ước gì những người có trọng trách và phận sự to tát hơn cũng nhớ những gì họ hứa với đất nước.
“Hẹn hò là giả dối, gặp gỡ là bắt được!”
Phạm Lân: chủ nhân khách sạn và nhà hàng Lotus
Yên Ba: đại tá Quân đội Nhân Dân
“Em đến ngay nhé! Chị chờ em ở chỗ anh Lân. Em cỏ nhớ không… 369B Nguyễn Trãi, góc Trần Khắc Chân, trước mặt đồn Công An cũ nhé… khách sạn Lotus đấy!”, giáo sư Nguyễn Thị Minh Thái thúc giục tôi hôm ở Sài Gòn.
Khách sạn Lotus là một điểm hẹn, một nơi hội tụ của của nhiều văn nhân nghệ sĩ Bắc Hà, cũng như Nam Bộ. Nói chung, đây là một nơi lý tưởng để gặp gỡ hàn huyên, ăn ở và nhậu nhẹt. Giá cả phải chăng. Chủ nhân là một người Hà Nội tên là Phạm Lân, định cư Sài Gòn lâu năm sau 75. Anh Lân là một người vui tánh, hiếu khách, dễ mến, hào phóng, và lịch lãm. Giao thiệp rộng nên anh quen biết hầu hết những nhân vật tiếng tăm.
Gặp anh lần thứ hai, thứ ba, tôi không đùa khi ví anh là một hảo hớn ưa tiếp đãi những người có lòng (quốc hồn quốc túy), cũng như có máu mặt. Không biết tự bao giờ khách sạn Lotus ở Nguyễn Trãi, quận 1 đã nghiễm nhiên trở thành một salon littéraire của Sài Gòn, tiếp nối truyền thống các mệnh phụ phu nhân của Paris ngày xưa. Trước khi rời Việt Nam vài ngày, tôi lại nhà hàng anh để trao cho đại tá Yên Ba một số sách vở vật dụng cho phó giáo sư tiến sĩ Minh Thái vì bận việc không kịp vào Nam để gặp tôi. Anh Lân gọi tôi mãi không được, cho đến khi tôi gọi lại mới vỡ lẽ đã mất di động trên taxi (lần này là Mai Linh). Vừa gặp tôi ở nhà hàng, anh Lân đã cười toe toét:
“Này, cậu còn gì quý để mất nữa không?”
“Anh khỏi bảo, mất con tim ở Hà Nội là mất của quý nhất trần đời rồi!”
“Thôi chả sao, tôi xin chia vui với cậu, thôi ngồi xuống đây uống vài cốc bia với tụi này!”
“Này, xin giới thiệu với Thái Anh Đại tá Yên Ba của Quân đội Nhân dân Việt Nam, bạn thân của Minh Thái!”
“Không dám, mình là đàn em thôi,” anh Yên Ba tươi cười, chìa tay bắt tay tôi. Anh nói thêm:
“Này anh đừng để chuyện mất mát đồ đạc mà nghĩ xấu về quê hương nhé!”
(Tôi định nói mất nước còn chả sao huống hồ ba cái chuyện lẻ tẻ, nhưng kịp ngưng.)
Ngồi nói chuyện một chặp, tôi khám phá anh Yên Ba là một sĩ quan trẻ, 46 cái xuân xanh, một người rất văn nghệ. Khi anh soạn ba lô để cất các thứ tôi giao cho, tôi thấy nhiều quyển sách cũ bià và giấy đã ngã màu vàng vọt, nhiều giá trị văn học, không kể quyển ‘Việt Nam máu lửa quê hương tôi’, bút ký của ông Đỗ Mậu.
“Này anh lùng đâu ra những quyển này thế!”
“Anh sắp về Mỹ, thôi để chuyến sau tôi sẽ chỉ chỗ cho mà mua.” Sau đó anh cho biết đã qua Mỹ vài lần trau dồi quân sự, rồi cũng tìm mua một số sách Việt bên Mỹ. Giao lưu văn hóa kiểu này có lẽ hơi hạn chế, nhưng có người làm được còn hơn không.
Chúng tôi nói chuyện vui vẻ, như bạn thân quen nhau lâu ngày. Anh Yên Ba lại quen cả hai vợ chồng giáo sư Peter Zinoman – Nguyệt Cầm ở đại học Berkeley gần nơi tôi ở.
“Xin anh làm ơn cho tôi một chuyện: Xin hai vợ chồng Peter và Nguyệt Cầm một quyển Dumb Luck có chữ ký của họ nhé. Khi nào hai vợ chồng, Đỗ Hoàng Diệu hay có ai về cầm về cho mình được thì quý quá!” Lúc đầu tôi còn ngạc nhiên vì không ngờ anh lại hỏi một quyển sách tiếng Anh: Dumb Luck, tức là Số đỏ của Vũ Trọng Phụng đã được hai vợ chồng Peter – Nguyệt Cầm dịch ra tiếng Anh. Người trong nước mà để ý đến chuyện văn học hải ngoại như thế là một chuyện đáng ghi nhớ.
“Cám ơn anh Lân đã giúp em gặp được những người tốt, lý thú… văn nghệ văn gừng (định nói có lòng với văn hóa hải ngoại, yêu đồng hương nhưng thấy nó giả tạo, đãi bôi nên thôi). Anh Lân cười xuề xòa: “Có gì đâu, khi nào cậu về, cứ đến đây chơi, anh sẽ giới thiệu cho những người khác.” Anh Yên Ba nhắn nhủ trước khi chúng tôi chia tay: “Nhớ nhé, đừng vì mất đồ đạc mà quên quê hương nhé!”
Hẹn hò là giả dối, gặp gỡ là bắt được! Là châm ngôn của tôi,” anh Phạm Lân cười ha hả, tuyên bố. “Mình gặp nhau là vui rồi, hẹn hò làm chi rồi không tới.” Chí lý!
Tôn Nữ Thị Ninh và Đại học Trí Việt (http://trivietuniversity.edu.vn)
Mấy hôm trước ngồi uống bia với anh Lân và anh Dương Trung Quốc, anh Lân cho biết: “Nếu Thái Anh đến sớm hơn nửa tiếng thì đã gặp Tôn Nữ Thị Ninh và một số nhân vật quan trọng rồi, chị ấy phải về đi họp. Anh Quốc đây cũng trong Hội đồng Cố vấn của chị ấy đấy.” Nhớ lại chuyến về Hà Nội mấy năm trước không gặp bà, tôi không bỏ lỡ cơ hội: “Anh có số điện thoại chị Ninh không? Không hiểu dự án xây đại học mấy năm nay của chị ấy đến đâu rồi.” Anh Quốc nghe tôi hỏi liền lấy di động ra gọi ngay: “Chị Ninh ơi, có một người dòng họ Nguyễn-Khoa bên Mỹ về… đang ngồi đây, muốn nói chuyện với chị.” Rồi anh đưa điện thoại cho tôi tiếp lời. Tôi cho biết sắp về Mỹ nên muốn gặp bà nói chuyện. Bà cho địa chỉ và số điện thoại và hẹn gặp.
Hôm thứ Hai trước khi về Mỹ tôi ghé thăm bà Tôn Nữ Thị Ninh và Đại học Trí Việt ở 180 đường Pasteur, quận 1 Sài Gòn. Bà Ninh trước là phát thanh/ngôn viên của nhà nước, là đại sứ Việt Nam tại Bỉ, Luxembourg và Liên hiệp Âu châu và cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam, cũng như Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Văn phòng Trí Việt nằm trên tầng 3 một toà nhà 4 tầng. Sau năm phút chờ bà họp xong, tôi được mời vào trong một phòng họp với bà và ông tổng thư ký, một người đàn ông trạc 60, tên là Phạm Như Hổ, nhưng hiền từ và lịch sự; được biết ông là Việt kiều Bỉ. Bà Ninh năm nay có lẽ cũng ngoài sáu mươi, khuôn mặt lúc nào cũng phảng phất một nét buồn diệu vợi, người không quen có thể cho rằng gương mặt bà đượm vẻ lạnh lùng. Nhưng được biết bà là một người giàu tình cảm, có lòng với đất nước, lúc nào cũng canh cánh mong làm được một chuyện gì cho quê hương, tuy ở hải ngoại không biết có mấy ai hiểu được tâm tư của bà.
Được biết Đại học Trí Việt sẽ được xây trong vùng kinh tế trọng điểm Sài Gòn – Gò Vấp, dự kiến khai trương 2013, và hoạt động toàn phần 2016. Khi thành hình sẽ có khoảng 8.000 sinh viên theo học, vừa ở cấp 2 năm, 4 năm và cao học. Mô hình đại học liên ngành chuyên chú vào các khoa sau đây:
*Công nghệ và Khoa học Ứng dụng;
*Quản lý;
*Thiết kế và Truyền thông;
*Ngoại ngữ;
*Bộ môn Kiến thức & Kỹ năng Nền tảng;
*Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế; và
*Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Bền vững
Nhưng có lẽ tôi thích nhất là những tiêu chí sau đây (được ghi trong tờ phát/pamphlet):
*Thành phần Ban Giáo sư gồm những giảng viên Việt Nam và quốc tế có óc sáng tạo là động lực của trường.
* Cố đào tạo những sinh viên có bản lĩnh, ý chí vươn lên và tinh thần phục vụ là sức sống của trường
*Phấn đấu là một trường đại học “xanh”
*Biết cân đối chất Việt (1) và tính toàn cầu
*Ưu tú về khoa bảng nhưng bình đẳng về cơ hội
*Tận tình hỗ trợ hướng nghiệp và tìm việc làm
*Một trường đại học đào tạo môi trường sống và rèn luyện cho sinh viên học thực làm thực
*Một đại học quy tụ các hoạt động trí thức và xã hội
*Giảng dạy chủ yếu bằng tiếng Anh (2)
Bà Ninh cũng cho biết lương bổng sẽ tương đương với các đại học nước ngoài và Trí Việt sẽ nỗ lực để trở nên một đại học hàng đầu ờ Việt Nam, thể hiện tầm nhìn lâu dài, tư duy rộng mở và phương pháp sư phạm tiên tiến.
Ngồi nghe bà Ninh và ông Hổ trình bày về đại học Trí Việt xong, bỗng dưng tôi muốn khóc, phần vì cảm phục cho nỗ lực dai dẳng của bà trong nhiều năm nay (từ ngày nghe bà trình bày ở Stanford và Palo Alto, 2006) nhằm vượt qua các khó khăn và rào cản, phần vì những trạng thái suy đồi của nền giáo dục Việt Nam cũng như văn hoá và lối sống thực dụng của dân tình trong một xã hội thời thượng mà tiền tài và vật chất lên ngôi trong khi đạo đức và nhân phẩm con người bị hạ bệ. Tất nhiên đây là lực cản lớn cho mọi ai muốn đóng góp cho xã hội Việt Nam đương thời. Nhất là chuyện đào tạo xây dựng một đạo ngũ nòng cốt thiết nghĩ phải bắt đầu với “Tiên học Lễ, hậu học văn” hay đúng hơn “phải lấy đạo đức, nhân cách làm đầu”. Đây là những tiêu chí mà bà Ninh nêu ra trong tờ tài liệu về đại học, thiết nghĩ không những sinh viên phải thực hành mà thành viên ban giảng huấn phải lấy làm điều tâm niệm.
Mục tiêu và lý tưởng tối hậu của Trí Việt – nếu tôi không lầm – là đào tạo được những thành phần cốt cán nhằm xây dựng lại một xã hội tốt lành – nếu không phải là một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (3). Đó là một nan đề vì khởi sự từ cấp đại học e rằng quá muộn. Ở Mỹ, vì một số sinh viên không đủ tiêu chuẩn vào đại học nên các nhà giáo dục (ở mọi cấp cho đến tiểu bang và liên bang) đều điên đầu. Trung học cấp II thì đổ thừa cho Trung học cấp I, cấp I thì đổ thừa cho Tiểu học, Tiểu học thì đổ thừa cho cha mẹ và các trường dạy trẻ. Ở Việt Nam thì khỏi nói, từ thời chiến tranh đến giờ – nhất là sau “giải phóng”, sau “đổi mới” – đạo đức suy đồi, cả một xã hội loạn cuồng theo đồng đô la.
Chuyện “trăm năm trồng người” (của Đại học Trí Việt) do đó có khó không khi tưởng như những ai đi đúng lý tưởng, lương tri, phép tắc và lề luật sẽ bị bỏ lại đằng sau dòng chảy ồ ạt của xe cộ (xã hội), thể hiện và phản ảnh đúng mức nếp sống lèn lách của Việt Nam hiện thời?
Có phải Đại học Trí Việt tốt và khác hơn các đại học ngoại quốc ở chỗ: du sinh sẽ ít người trở về nước khi họ kiếm được việc làm ở các nước sở tại. Sinh viên Trí Việt ở trong nước là thành phần nào? Nghèo hơn du sinh? Thiếu phương tiện hơn gia đình du sinh? Có thể là một điều tốt chăng? Nếu gia đình họ còn giữ được đạo đức và nhân phẩm. Đây có phải là một động lực chính của Đại học Trí Việt? (Có phải Trí Việt sẽ tạo ra những thang học phí theo khả năng tài chánh gia đình, tạo ra học bổng, trợ giúp cho những gia đình nghèo?)
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ca dao Việt Nam
N. K. T. A.
Thư giãn Chủ Nhật: Những chuyện đáng ghi nhớ: Sài Gòn – Hà Nội – San José
Nguyễn Khoa Thái Anh
Chủ Nhật tuần rồi (January 16, 2011) là một ngày đáng ghi nhớ ở San José. Đáng ghi nhớ không phải vì một chuyện lớn tiếng mà tôi có can dự trong buổi họp báo hội Tết Dancing with the Troops ở café Paloma trong khu Grand Century Mall. Đáng ghi nhớ không phải vì tật thói cố hữu hay đi trễ của (một số) người Việt. Đáng ghi nhớ cũng không phải tánh thói không chịu đọc, không chịu tìm hiểu sự kiện nên không nắm bắt vấn đề nhưng lại thích góp ý vung vít của một số người mang danh nghĩa báo chí.Nhưng chuyện đáng ghi nhớ có lẽ lời khước từ không có thì giờ đi họp báo và sau đó trở thành lời khuyên của Trần Đệ, chủ nhiệm tuần báo VTimes: “Đừng nên dính dấp, sa đà vào nhiều chuyện phức tạp của cộng đồng!” Và cũng xin thưa, có bao giờ tôi được ai nhận mình là một người của cộng đồng San José đâu? Có lẽ vì vậy nên hôm đó Vũ Khang của Việt Weekly lớn tiếng gạn hỏi muốn biết tôi là ai, viết cho báo nào!
Đúng ra chuyện tôi muốn bàn tới đây là chuyện tình cờ gặp những nhân vật đáng ghi nhớ ở Việt Nam rồi sự việc tuần tự diễn biến đưa đến chuyện gặp gỡ họ ở San José trong hôm chủ nhật vừa qua. Ở Sài Gòn, tôi tình cờ gặp ông đại biểu Quốc hội, nhà văn, nhà báo và sử gia Dương Trung Quốc nơi nhà hàng và khách sạn Lotus qua sự giới thiệu của chủ nhân. Sau đó được biết ông sẽ sang Cali thăm gia đình đúng khoảng thời gian tôi về Mỹ nên hẹn sẽ gặp lại. Thứ Sáu – thứ Bảy, hai ngày cuối tuần ở Mỹ vừa qua, liên lạc nhau qua điện thoại di động, nhưng không gặp vì chương trình du ngoạn của ông Quốc quá khít khao.
Bùi Tín và Dương Trung Quốc
Chiều Chủ nhật được tin bác Bùi Tín ở Paris sang chơi thăm gia đình, tôi ghé nhà anh Quang ăn mừng sinh nhật thứ 85 của bác. Cùng lúc anh Quốc đi chơi San Francisco về gọi điện đi động mời tôi sang nhà bà dì dùng cơm. Nghe tin có Dương Trung Quốc ở San José, bác Bùi Tín chào hỏi anh qua điện thoại. Sau đó anh Quốc cho người nhà chỉ đường tôi đến nhà anh chơi. Vì tôi đã dùng cơm rồi, nên khi đến nơi chúng tôi ngồi salông nói chuyện với nhau. Dương Trung Quốc năm nay 65, thua ông Bùi Tín 20 tuổi, là một người tốt tướng da dẻ hồng hào, tóc bạch kim. Ông Bùi Tín 85, già yếu hơn, nhưng vẫn tinh tường, sắc sảo và khoẻ mạnh, tuy đi đứng có phần chậm hơn những năm trước. Hai người cùng phục vụ trong guồng máy nhà nước vào hai thời điểm khác nhau, hai vai trò khác nhau.
Dương Trung Quốc đang ở cuối nhiệm kỳ thứ hai trong vai đại biểu Quốc hội, ông Bùi Tín đã thôi vai Phó Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân 20 năm nay. Điều khác biệt: một người còn trong guồng máy, một người đã ra khỏi. Một người lên án mạnh mẽ chế độ. Một người nhẹ nhàng hơn. Lý do dễ hiểu. Trong khi tôi lại ao ước ngược đời: người tại chức trong nước sẽ ăn nói mạnh bạo hơn, người ngoài nước bày tỏ thái độ từ tốn hơn.
Không hiểu có phải vì bản tính triết học hay do làm một đại biểu Quốc hội (tuy không là đảng viên), mà ông Quốc ăn nói lặng lẽ, khoan thai hơn. Trong khi người ở ngoài không hiểu do tuổi già chồng chất hoặc do không thấy ánh sáng le lói ở đường hầm mà trở nên gay gắt hơn. Nghe hai cách nói chuyện của hai ông, tôi không biết cảm phục tánh ngoại giao của anh Quốc hay tánh không cả nể của ông Bùi Tín hơn.
Buổi chiều trước khi sang nhà bà dì của ông Quốc, tôi ngồi nghe ông Tín bàn với các đàn anh (của tôi) về tình hình chính trị trong nước, sự đã rồi của đại hội XI Đảng, chuyện anh Cù Huy Hà Vũ, không khí hào hứng hơn khi ông Tín kể chuyện tiếp thu 16 tấn vàng của miền Nam và ai quản lý số tài sản kếch sù ấy, cũng như cách quyết định nhân sự của đại hội Đảng kỳ VI vào giờ phút chót, v.v..
Trên xe riêng với bác Tín, tôi hỏi ông có muốn về Việt Nam thăm gia đình không vì nghe bác kể có người trong Sứ quán, giữ trọng trách về khâu visa đã thông tin cho ông biết là họ sẵn sàng cho ông về: “Anh cứ về thoải mái… viết như vậy đã đủ rồi, trong nước có nhiều người, nói và viết còn mạnh hơn anh” Đương nhiên cảm nhận được thông điệp của nhà nước nên tôi thiển nghĩ ông Tín cũng phân vân trong chuyện về hay không về. Trong khi đó khi hỏi chuyện với anh Quốc, anh góp ý: “Tôi đã từng rất phục ngòi bút của Bùi Tín khi anh còn là Thành Tín thời chiến tranh… Anh Bùi Tín tuổi đã cao rồi nên về Việt Nam vui thú với con cháu… và chứng kiến thế sự…” Trong khi đó có nhiều người ở hải ngoại cho rằng chuyện về nước là đầu hàng Cộng sản.
Vốn là một người sinh sau đẻ muộn, không can dự vào cuộc nồi da xáo thịt vừa qua nên có lẽ mức chịu đựng của tôi cao hơn những người đã bị mất mát quá nhiều trong cuộc chiến và hệ quả của nó. Cho nên những khi về Việt Nam trước tiên tôi thích tìm gặp những tâm hồn cao thượng, sau là tìm hiểu những người sống trong lòng chế độ, kể cả những người bị gán cho nhãn-mác Việt Cộng.
Ngay cả tôi, một người từ nhỏ đến lớn không bao giờ bị mê hoặc, ưa thích hay tin vào chủ nghĩa Cộng sản, cũng đã từng bị gán cho cái mác thân Cộng! Thật tình mà nói nếu như chuyện tìm hiểu, bắc được một nhịp cầu tri âm, thông cảm giữa người Việt trong và ngoài nước nhằm tô đắp cho một Việt Nam tươi sáng hơn, nhân bản và công bằng hơn thì có gán cho tôi 1.000 cái mác “thân Cộng” tôi cũng không màng!
Điều quan trọng đối với tôi là chuyện tìm về nhân cách của con người, cũng như lối hành xử tử tế và đạo đức của mỗi cá nhân – vốn là bản tính thuần Việt – và làm thế nào để khôi phục lại những đức tính này trong khi một số đông đang bị cuốn kéo trong nếp sống ồ ạt của kinh tế thị trường theo định hướng – không phải là xã hội chủ nghĩa – mà là cá lớn đớp cá bé, mackeno, sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi mới chính là vấn đề.
Đương nhiên, đây là một ao ước huyễn hoặc, một chuyện khó khăn trong một xã hội đang giằng co trong thế tranh tối tranh sáng, nhá nhem giữa văn minh và lạc hậu, giữa tiến bộ toàn cầu hóa của nhân văn và tụt hậu cục bộ của Mácxít-Lêninnít, cấp tiến và chậm tiến trong thế kỷ 21 này. Có phải Việt Nam đang bị trì trệ nhưng vẫn cố vươn lên giữa cái thiện và cái ác, giữa đạo đức và vô luân, đàng hoàng và tạm bợ, mà kết quả là sự kết hợp quái quỷ giữa hai thái cực tác hại nhất của Tư bản và Cộng sản?
Tuy thế, nan đề của Việt Nam không chỉ nằm ở cội rễ của những đảng viên Cộng sản chuyên chính, tham quyền cố vị, không chịu cải thiện, không biết đặt ưu tiên cho sự tồn vong của đất nước lên trên sự trục lợi của cá nhân và đảng phái, mà nó còn tồn tại nơi sự ù lì của dân tình, dai dẳng chịu đựng những chuyện trái tai gai mắt, những chuyện nửa vời, vá víu và tạm bợ trong cuộc sống, chối bỏ chuyện liên đới trách nhiệm và tư cách công dân của mình chỉ vì bao năm nay họ đã được Đảng nhận lãnh trách nhiệm sở hữu đất nước thay cho họ rồi.
Nói như vậy không phải không có những gương sáng trong Đảng, trong dân chúng. Ở đây ta chưa cần nói đến những nhân vật nổi cộm như luật sư Cù Huy Hà Vũ và Lê thị Công Nhân, linh mục Nguyễn Văn Lý, hòa thượng Thích Quảng độ, v.v. và v.v. Có nhiều cá nhân – bất chấp những chuyện bất cập chung quanh – vẫn âm thầm có những cố gắng giữ lấy nề nếp trong gia đình, trong cuộc sống, làm những chuyện hữu ích cho xã hội. Về Việt Nam tôi đã gặp những trường hợp điển hình đó.
Những con người đạo đức
Tạ Duy Anh
Một hôm ở Hà Nội đang ngồi café, nói chuyện với nhà văn Tạ Duy Anh bỗng điện thoại di động reo:
“Xin lỗi anh Thái Anh nhé, thằng con nhà em nó gọi”. Duy Anh áp di động vào tai: “Làm bài vở xong rổi à? Đúng thế phải không?… Có cần bố giúp gì không? Không à? Được… Mày gỉỏi nhỉ… Ừ, xem TV một tiếng thôi nhé, rồi lo tươm tất nhà cửa… Thế nhé!”
“Mình phục thật, trong khi học đường ngày nay đầy dẫy những chuyện ma-le dối trá, thì con trai Duy Anh ở nhà một mình, cứ việc coi TV, cần gì gọi điện xin phép bố? Bố không biết thì đã sao! Anh rất đỗi ngạc nhiên, phục cách giáo dục con của em sát đất!”
“Nhiều lúc cô nói hay xử sự điều gì nó không cho là đúng, nó cũng về kể lại, hỏi em.” Tôi gục gặc đầu, cảm phục.
Chuyện Bé Cún, cháu ngoại của đạo diễn Trần Văn Thủy
Khi ở Hà Nội tôi được hân hạnh tá túc ở nhà anh Trần Văn Thủy dăm mười ngày. Hai vợ chồng anh có một đứa cháu ngoại tên Cún rất dễ thương và xinh xắn. Đối với một đứa bé 8 tuổi, nó thật là đằm thắm, đáo để và sâu sắc.
Một hôm Cún đi học về, ngồi trong lòng bà ngoại ngoan ngoãn như một con mèo con. Bà yêu cháu, ôm Cún vào lòng dặn dò, khuyên bảo cháu đủ điều, nào là:
“Cún phải ngoan này, Cún phải chăm học này, Cún phải thuộc bài này, phải nghe cô giáo giảng dạy này, Cún phải chịu khó này…”
Bé Cún ngồi im trong lòng bà nghe bà dặn dò thắm thiết nhưng lại im như thóc, chẳng thèm vâng dạ, ừ à chi cả. Chốc sau bà ra bếp làm cơm. Cún ở góc phòng hí hoáy, nắn nót viết những dòng chữ gì đó trên bảng. Một lúc sau Cún nói rất to:
“Này bà ơi!”
Bà quay lại hỏi: “Gì, cháu bảo bà cái gì?” Cún chỉ lên bảng: “Bà đọc đi!” Bà nheo mắt lẩm bẩm đọc những dòng chữ đều đặn Cún viết trên bảng: “Trên con đường đi đến sự thành công không có dấu chân của những kẻ lười biếng!” Rồi nó tỉnh bơ chẳng nói thêm câu gì nữa. Cũng như thế, một hôm không nhớ nó đòi mua hay bà nó hứa hẹn mua cho nó một cái gì. Bẵng đi vài ngày, có lẽ bà đã quên. Cún lại chỉ lên bảng bảo: “Bà! Đọc đi!” Bà lại nheo mắt để đọc những dòng chữ rất nắn nót: “Nói thời phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay.” Ước gì những người có trọng trách và phận sự to tát hơn cũng nhớ những gì họ hứa với đất nước.
“Hẹn hò là giả dối, gặp gỡ là bắt được!”
Phạm Lân: chủ nhân khách sạn và nhà hàng Lotus
Yên Ba: đại tá Quân đội Nhân Dân
“Em đến ngay nhé! Chị chờ em ở chỗ anh Lân. Em cỏ nhớ không… 369B Nguyễn Trãi, góc Trần Khắc Chân, trước mặt đồn Công An cũ nhé… khách sạn Lotus đấy!”, giáo sư Nguyễn Thị Minh Thái thúc giục tôi hôm ở Sài Gòn.
Khách sạn Lotus là một điểm hẹn, một nơi hội tụ của của nhiều văn nhân nghệ sĩ Bắc Hà, cũng như Nam Bộ. Nói chung, đây là một nơi lý tưởng để gặp gỡ hàn huyên, ăn ở và nhậu nhẹt. Giá cả phải chăng. Chủ nhân là một người Hà Nội tên là Phạm Lân, định cư Sài Gòn lâu năm sau 75. Anh Lân là một người vui tánh, hiếu khách, dễ mến, hào phóng, và lịch lãm. Giao thiệp rộng nên anh quen biết hầu hết những nhân vật tiếng tăm.
Gặp anh lần thứ hai, thứ ba, tôi không đùa khi ví anh là một hảo hớn ưa tiếp đãi những người có lòng (quốc hồn quốc túy), cũng như có máu mặt. Không biết tự bao giờ khách sạn Lotus ở Nguyễn Trãi, quận 1 đã nghiễm nhiên trở thành một salon littéraire của Sài Gòn, tiếp nối truyền thống các mệnh phụ phu nhân của Paris ngày xưa. Trước khi rời Việt Nam vài ngày, tôi lại nhà hàng anh để trao cho đại tá Yên Ba một số sách vở vật dụng cho phó giáo sư tiến sĩ Minh Thái vì bận việc không kịp vào Nam để gặp tôi. Anh Lân gọi tôi mãi không được, cho đến khi tôi gọi lại mới vỡ lẽ đã mất di động trên taxi (lần này là Mai Linh). Vừa gặp tôi ở nhà hàng, anh Lân đã cười toe toét:
“Này, cậu còn gì quý để mất nữa không?”
“Anh khỏi bảo, mất con tim ở Hà Nội là mất của quý nhất trần đời rồi!”
“Thôi chả sao, tôi xin chia vui với cậu, thôi ngồi xuống đây uống vài cốc bia với tụi này!”
“Này, xin giới thiệu với Thái Anh Đại tá Yên Ba của Quân đội Nhân dân Việt Nam, bạn thân của Minh Thái!”
“Không dám, mình là đàn em thôi,” anh Yên Ba tươi cười, chìa tay bắt tay tôi. Anh nói thêm:
“Này anh đừng để chuyện mất mát đồ đạc mà nghĩ xấu về quê hương nhé!”
(Tôi định nói mất nước còn chả sao huống hồ ba cái chuyện lẻ tẻ, nhưng kịp ngưng.)
Ngồi nói chuyện một chặp, tôi khám phá anh Yên Ba là một sĩ quan trẻ, 46 cái xuân xanh, một người rất văn nghệ. Khi anh soạn ba lô để cất các thứ tôi giao cho, tôi thấy nhiều quyển sách cũ bià và giấy đã ngã màu vàng vọt, nhiều giá trị văn học, không kể quyển ‘Việt Nam máu lửa quê hương tôi’, bút ký của ông Đỗ Mậu.
“Này anh lùng đâu ra những quyển này thế!”
“Anh sắp về Mỹ, thôi để chuyến sau tôi sẽ chỉ chỗ cho mà mua.” Sau đó anh cho biết đã qua Mỹ vài lần trau dồi quân sự, rồi cũng tìm mua một số sách Việt bên Mỹ. Giao lưu văn hóa kiểu này có lẽ hơi hạn chế, nhưng có người làm được còn hơn không.
Chúng tôi nói chuyện vui vẻ, như bạn thân quen nhau lâu ngày. Anh Yên Ba lại quen cả hai vợ chồng giáo sư Peter Zinoman – Nguyệt Cầm ở đại học Berkeley gần nơi tôi ở.
“Xin anh làm ơn cho tôi một chuyện: Xin hai vợ chồng Peter và Nguyệt Cầm một quyển Dumb Luck có chữ ký của họ nhé. Khi nào hai vợ chồng, Đỗ Hoàng Diệu hay có ai về cầm về cho mình được thì quý quá!” Lúc đầu tôi còn ngạc nhiên vì không ngờ anh lại hỏi một quyển sách tiếng Anh: Dumb Luck, tức là Số đỏ của Vũ Trọng Phụng đã được hai vợ chồng Peter – Nguyệt Cầm dịch ra tiếng Anh. Người trong nước mà để ý đến chuyện văn học hải ngoại như thế là một chuyện đáng ghi nhớ.
“Cám ơn anh Lân đã giúp em gặp được những người tốt, lý thú… văn nghệ văn gừng (định nói có lòng với văn hóa hải ngoại, yêu đồng hương nhưng thấy nó giả tạo, đãi bôi nên thôi). Anh Lân cười xuề xòa: “Có gì đâu, khi nào cậu về, cứ đến đây chơi, anh sẽ giới thiệu cho những người khác.” Anh Yên Ba nhắn nhủ trước khi chúng tôi chia tay: “Nhớ nhé, đừng vì mất đồ đạc mà quên quê hương nhé!”
Hẹn hò là giả dối, gặp gỡ là bắt được! Là châm ngôn của tôi,” anh Phạm Lân cười ha hả, tuyên bố. “Mình gặp nhau là vui rồi, hẹn hò làm chi rồi không tới.” Chí lý!
Tôn Nữ Thị Ninh và Đại học Trí Việt (http://trivietuniversity.edu.vn)
Mấy hôm trước ngồi uống bia với anh Lân và anh Dương Trung Quốc, anh Lân cho biết: “Nếu Thái Anh đến sớm hơn nửa tiếng thì đã gặp Tôn Nữ Thị Ninh và một số nhân vật quan trọng rồi, chị ấy phải về đi họp. Anh Quốc đây cũng trong Hội đồng Cố vấn của chị ấy đấy.” Nhớ lại chuyến về Hà Nội mấy năm trước không gặp bà, tôi không bỏ lỡ cơ hội: “Anh có số điện thoại chị Ninh không? Không hiểu dự án xây đại học mấy năm nay của chị ấy đến đâu rồi.” Anh Quốc nghe tôi hỏi liền lấy di động ra gọi ngay: “Chị Ninh ơi, có một người dòng họ Nguyễn-Khoa bên Mỹ về… đang ngồi đây, muốn nói chuyện với chị.” Rồi anh đưa điện thoại cho tôi tiếp lời. Tôi cho biết sắp về Mỹ nên muốn gặp bà nói chuyện. Bà cho địa chỉ và số điện thoại và hẹn gặp.
Hôm thứ Hai trước khi về Mỹ tôi ghé thăm bà Tôn Nữ Thị Ninh và Đại học Trí Việt ở 180 đường Pasteur, quận 1 Sài Gòn. Bà Ninh trước là phát thanh/ngôn viên của nhà nước, là đại sứ Việt Nam tại Bỉ, Luxembourg và Liên hiệp Âu châu và cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam, cũng như Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Văn phòng Trí Việt nằm trên tầng 3 một toà nhà 4 tầng. Sau năm phút chờ bà họp xong, tôi được mời vào trong một phòng họp với bà và ông tổng thư ký, một người đàn ông trạc 60, tên là Phạm Như Hổ, nhưng hiền từ và lịch sự; được biết ông là Việt kiều Bỉ. Bà Ninh năm nay có lẽ cũng ngoài sáu mươi, khuôn mặt lúc nào cũng phảng phất một nét buồn diệu vợi, người không quen có thể cho rằng gương mặt bà đượm vẻ lạnh lùng. Nhưng được biết bà là một người giàu tình cảm, có lòng với đất nước, lúc nào cũng canh cánh mong làm được một chuyện gì cho quê hương, tuy ở hải ngoại không biết có mấy ai hiểu được tâm tư của bà.
Được biết Đại học Trí Việt sẽ được xây trong vùng kinh tế trọng điểm Sài Gòn – Gò Vấp, dự kiến khai trương 2013, và hoạt động toàn phần 2016. Khi thành hình sẽ có khoảng 8.000 sinh viên theo học, vừa ở cấp 2 năm, 4 năm và cao học. Mô hình đại học liên ngành chuyên chú vào các khoa sau đây:
*Công nghệ và Khoa học Ứng dụng;
*Quản lý;
*Thiết kế và Truyền thông;
*Ngoại ngữ;
*Bộ môn Kiến thức & Kỹ năng Nền tảng;
*Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế; và
*Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Bền vững
Nhưng có lẽ tôi thích nhất là những tiêu chí sau đây (được ghi trong tờ phát/pamphlet):
*Thành phần Ban Giáo sư gồm những giảng viên Việt Nam và quốc tế có óc sáng tạo là động lực của trường.
* Cố đào tạo những sinh viên có bản lĩnh, ý chí vươn lên và tinh thần phục vụ là sức sống của trường
*Phấn đấu là một trường đại học “xanh”
*Biết cân đối chất Việt (1) và tính toàn cầu
*Ưu tú về khoa bảng nhưng bình đẳng về cơ hội
*Tận tình hỗ trợ hướng nghiệp và tìm việc làm
*Một trường đại học đào tạo môi trường sống và rèn luyện cho sinh viên học thực làm thực
*Một đại học quy tụ các hoạt động trí thức và xã hội
*Giảng dạy chủ yếu bằng tiếng Anh (2)
Bà Ninh cũng cho biết lương bổng sẽ tương đương với các đại học nước ngoài và Trí Việt sẽ nỗ lực để trở nên một đại học hàng đầu ờ Việt Nam, thể hiện tầm nhìn lâu dài, tư duy rộng mở và phương pháp sư phạm tiên tiến.
Ngồi nghe bà Ninh và ông Hổ trình bày về đại học Trí Việt xong, bỗng dưng tôi muốn khóc, phần vì cảm phục cho nỗ lực dai dẳng của bà trong nhiều năm nay (từ ngày nghe bà trình bày ở Stanford và Palo Alto, 2006) nhằm vượt qua các khó khăn và rào cản, phần vì những trạng thái suy đồi của nền giáo dục Việt Nam cũng như văn hoá và lối sống thực dụng của dân tình trong một xã hội thời thượng mà tiền tài và vật chất lên ngôi trong khi đạo đức và nhân phẩm con người bị hạ bệ. Tất nhiên đây là lực cản lớn cho mọi ai muốn đóng góp cho xã hội Việt Nam đương thời. Nhất là chuyện đào tạo xây dựng một đạo ngũ nòng cốt thiết nghĩ phải bắt đầu với “Tiên học Lễ, hậu học văn” hay đúng hơn “phải lấy đạo đức, nhân cách làm đầu”. Đây là những tiêu chí mà bà Ninh nêu ra trong tờ tài liệu về đại học, thiết nghĩ không những sinh viên phải thực hành mà thành viên ban giảng huấn phải lấy làm điều tâm niệm.
Mục tiêu và lý tưởng tối hậu của Trí Việt – nếu tôi không lầm – là đào tạo được những thành phần cốt cán nhằm xây dựng lại một xã hội tốt lành – nếu không phải là một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (3). Đó là một nan đề vì khởi sự từ cấp đại học e rằng quá muộn. Ở Mỹ, vì một số sinh viên không đủ tiêu chuẩn vào đại học nên các nhà giáo dục (ở mọi cấp cho đến tiểu bang và liên bang) đều điên đầu. Trung học cấp II thì đổ thừa cho Trung học cấp I, cấp I thì đổ thừa cho Tiểu học, Tiểu học thì đổ thừa cho cha mẹ và các trường dạy trẻ. Ở Việt Nam thì khỏi nói, từ thời chiến tranh đến giờ – nhất là sau “giải phóng”, sau “đổi mới” – đạo đức suy đồi, cả một xã hội loạn cuồng theo đồng đô la.
Chuyện “trăm năm trồng người” (của Đại học Trí Việt) do đó có khó không khi tưởng như những ai đi đúng lý tưởng, lương tri, phép tắc và lề luật sẽ bị bỏ lại đằng sau dòng chảy ồ ạt của xe cộ (xã hội), thể hiện và phản ảnh đúng mức nếp sống lèn lách của Việt Nam hiện thời?
Có phải Đại học Trí Việt tốt và khác hơn các đại học ngoại quốc ở chỗ: du sinh sẽ ít người trở về nước khi họ kiếm được việc làm ở các nước sở tại. Sinh viên Trí Việt ở trong nước là thành phần nào? Nghèo hơn du sinh? Thiếu phương tiện hơn gia đình du sinh? Có thể là một điều tốt chăng? Nếu gia đình họ còn giữ được đạo đức và nhân phẩm. Đây có phải là một động lực chính của Đại học Trí Việt? (Có phải Trí Việt sẽ tạo ra những thang học phí theo khả năng tài chánh gia đình, tạo ra học bổng, trợ giúp cho những gia đình nghèo?)
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ca dao Việt Nam
N. K. T. A.
No comments:
Post a Comment