Khi tiếng kêu tuyệt vọng của đại tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn
23 yêu cầu không quân dội bom trên đầu, thị xã Ban mê Thuột đang ở
những giờ phút cuối.
Đó là đêm 13 tháng 3 năm 1975.
Sau khi đánh thăm dò lấy được Phước Long, tiếp theo trận chính thức
mở màn hạ xong Ban Mê Thuột, từ cao nguyên Văn Tiến Dũng báo tin chiến
thắng về Hà Nội. Lê Duẩn cho lệnh phát động chiến dịch Hồ chí Minh. Bắc
quân mở 3 mặt trận tổng tấn công miền Nam. Từ Phước Long đánh xuống Sài
Gòn. Từ Cao nguyên cắt ngang duyên hải và từ Hỏa tuyến đánh thẳng vào
Thừa thiên.
Đó là đêm 13 tháng 3 năm 1975.
Tổng Thống Thiệu vẫn còn ngồi trên bàn viết ở cánh phải dinh Độc lập.
Ông xem lại xấp hồ sơ của bộ tổng tham mưu trình bày về khả năng giữ
đất theo mức quân viện do trung tướng Đồng Văn Khuyên trình lên đầu
tháng 2. Tài liệu này ban tham mưu Mỹ và Việt ước tính với tình trạng
viện trợ cắt giảm hiện nay thì sẽ phải bỏ gần hết lãnh thổ vùng I và II.
Hồ sơ màu đỏ của tướng Ted Serong đề nghị các cuộc triệt thoái chiến
lược khẩn cấp. Tuy nhiên viên tướng Úc chuyên về nghiên cứu chiến trường
ghi rõ kế hoạch của ông phải thi hành từ cuối năm 1974. Qua đến 1975
thì vô phương vì quá muộn. Trên bàn viết có những hàng chữ gạch xóa. Bỏ
Pleiku, tái chiếm Ban Mê Thuột ? Bỏ Huế, giữ Huế? Đem dù về Sài Gòn. Bọn
Mỹ phản bội. Từ chức hay ở lại?
Vị tổng thống miền Nam viết xuống những suy tư trong hoàn cảnh hết sức bối rối cô đơn. Đó là đêm 13 tháng 3 năm 1975
Quay qua xấp hồ sơ mầu xanh của bộ tổng tham mưu mới được đại tá Đỗ
Đức Tâm trình hồi chiều. Tổng Thống Thiệu hờ hững cầm lên đọc đoạn mở
đầu :
Kế Hoạch Diên Hồng 75
“Giải pháp sau cùng cho miền Nam ”. Chiến tranh nhân dân chống chiến tranh nhân dân. Đi vào chỗ chết để tìm đường sống.
Ông Thiệu sững sờ đọc đi đọc lại các tựa đề. Đây là văn tài liệu viết
báo chứ đâu phải văn thư trình tổng thống. Không có gì chứng tỏ đại
tướng Cao Văn Viên đã duyệt qua báo cáo này.
Ông bắt đầu giở từng trang. Toàn bộ kế hoạch do 5 đại tá của bộ Tổng
tham mưu soạn thảo với các giải pháp hết sức quyết liệt để cứu miền Nam
vào những giờ phút tuyệt vọng.
Ông Thiệu ngả người xuống ghế salon, và mở từng trang ra đọc. Đêm hôm đó ông hoàn toàn không ngủ.
Đó là đêm 13 tháng 3 năm 1975
Bình minh của tổng thống.
Sáng sớm ngày 14/3/75, vị tổng thống miền Nam mới chợp mắt trên ghế
salon ngay trong văn phòng. Bà Thiệu từ trên lầu 3 phía hậu dinh đi
xuống hai lần nhưng không dám làm ông thức giấc.
Khi những tia nắng sáng soi vào hành lang, tổng thống Thiệu tỉnh
giấc, lập tức ra lệnh cho đại tá Võ Văn Cầm, chánh văn phòng hủy bỏ
chuyến bay dự trù cho buổi họp tại Cam Ranh. Đại tá Cầm nhận lệnh tất tả
về lại văn phòng kêu điện thoại. Buổi họp Cam Ranh dự trù có tướng Phú
quân đoàn II, tướng Quang cố vấn an ninh, đại tướng Viên và thủ tướng
Khiêm sẽ không thực hiện như đã dự trù.
Tổng thống quyết định chủ tọa một buổi họp khác tại bộ tổng tham mưu tổ chức cấp thời lúc 11 giờ trưa.
Ông điện thoại liên lạc thẳng cho tướng Trần Văn Hai, tư lệnh sư đoàn
7 tại căn cứ Đồng Tâm. Đại tá Trần Thanh Điền đứng bên nghe được những
lời sau cùng tổng thống Thiệu nói với vị tướng sư đoàn 7 bộ binh.
“Tôi nhờ anh Điền đem bà xã và gia đình xuống Đồng Tâm.
Anh lo hộ cho gia đình tôi trú ngụ dưới đó. Sau cuộc chiến này tôi sẽ gặp lại”.
Anh lo hộ cho gia đình tôi trú ngụ dưới đó. Sau cuộc chiến này tôi sẽ gặp lại”.
Đại tá Vũ Quang Chiêm, chánh võ phòng và đại tá Điền, trưởng khối cận
vệ cùng nhìn nhau. Tiếng nói của tổng thống Thiệu nghe hơi lạ. Qua một
đêm, ông Thiệu hình như trở thành người khác.
Ban hành thêm một số chỉ thị, ông cầm xấp hồ sơ bìa xanh của bộ tổng
tham mưu đi lên lầu. Đại tá Võ văn Cầm bước theo, tay cầm giấy bút ghi
lại các khẩu lệnh.
Tổng thống vừa đi vừa nói.
”Việc bàn giao giữa nội các của ông Khiêm và ông Cẩn cho làm gấp.
Anh phụ nhà tôi kiếm một bộ quân phục với cấp bậc thời kỳ lãnh đạo quốc
gia cho tôi. Xem chừng chật rồi.
Mời phó tổng thống, thủ tướng Khiêm và ông Nguyễn Bá Cẩn chiều nay họp với tôi trong bộ tổng tham mưu.
Tôi muốn tất cả các sĩ quan từ cấp đại tá trở lên họp mặt tại
trại Trần Hưng Đạo trưa nay. Trình với đại tướng Viên thu xếp cho mọi
người ăn trưa. Cơm tay cầm được rồi. Trung tướng Đồng Văn Khuyên chuẩn
bị cho tôi tài liệu đầy đủ về tiếp vận. Nói với các tướng lãnh từ nay
tuyệt đối không thông báo công việc và tin tức cho Hoa Kỳ.”
Đại tá Cầm bèn hỏi lại:
Như vậy sẽ phải tin cho đại tướng tổng tham mưu trưởng…
Dừng lại ở cửa phòng, ông Thiệu nói chậm rãi:
“Không, từ nay tôi sẽ kiêm tổng tham mưu trưởng, đại tướng Viên sẽ là cố vấn cho tôi. Tôi sẽ làm việc bên bộ tổng tham mưu.
Tôi giao cho các anh giữ dinh Độc Lập với cụ Hương. Đánh xong trận này tôi sẽ trở lại.”
Tôi giao cho các anh giữ dinh Độc Lập với cụ Hương. Đánh xong trận này tôi sẽ trở lại.”
Quả thực cũng như ông Điền và ông Chiêm, đại tá Cầm sững sờ khi thấy ông Thiệu trở thành một người khác
Phiên họp lịch sử.
Lần đầu tiên cờ 3 sao của trung tướng Nguyễn văn Thiệu bay trở lại
trên tòa lầu chính. Từ nhiều năm qua cờ 4 sao của đại tướng Viên đã
không được treo theo lệnh của chính vị tổng tham mưu trưởng.
Câu lạc bộ sĩ quan trở thành nơi họp đại hội đồng quân lực gồm tất cả
các đại tá và tướng lãnh tại bộ tổng tham mưu. Hơn một trung đội quân
cảnh được huy động gác vòng trong vòng ngoài.
Một trăm ổ bánh mì Bưu điện đặt trên bàn nhưng dường như không ai đụng đến.
Ngồi sau một bàn nhỏ đơn độc từ phía trên ngó xuống, trung tướng
Thiệu mặc quân phục 3 sao bắt đầu bằng giọng bình dân cố hữu nhưng có
phần xúc động.
“Cố vấn Mỹ bảo tôi bỏ đất. Cố vấn Úc cũng bảo tôi bỏ đất. Pháp bảo
tôi hòa giải với cộng sản. Hoa Kỳ bảo tôi phải ra đi. Chính khách Saigon
đề nghị lập chính phủ liên hiệp. Cộng sản bảo rằng không nói chuyện với
Thiệu. Cũng không liên hiệp với cụ Hương.
Nixon không còn nữa, Ford không phải là tổng thống do dân bầu nên không quyết định. Hoa Kỳ đã dứt khoát quay lưng lại Việt Nam.
Tất cả đều nói là Thiệu cản trở hòa bình. Thiệu phải ra đi.
Đêm hôm qua tôi đã chuẩn bị đi Cam Ranh để ban hành lệnh tái phối trí rất quan trọng. Nhưng nay tôi quyết định ở lại.
Không phải chỉ là không đi Cam Ranh. Tôi sẽ không đi đâu cả. Tôi quyết định ở lại và sống chết với anh em.
Vừa nói đến đây, ông Thiệu nghẹn lời và cả hội trường bừng lên tiếng vỗ tay vang dậy.
Chờ cho cơn xúc động chấm dứt. ông Thiệu nói tiếp.
-“Tôi sẽ không từ chức. Từ nay, tôi sẽ là tổng tư lệnh kiêm tổng
tham mưu trưởng bộ tổng tham mưu. Khi tôi nói chuyện với các anh ở đây
thì nhà tôi và các cháu đã về quê Mỹ Tho. Với tính bông đùa cố hữu, ông
Thiệu nói. Mỹ Tho chứ không phải là Mỹ quốc.”
Ông cao giọng:.
“Sẽ không có thằng Tây thằng Mỹ nào đuổi tôi đi đâu được. Bởi vì sau tôi sẽ không còn gì cả. Sau tôi chỉ còn cộng sản.”
Tiếng vỗ tay lại một lần nữa nổi lên cùng với sự hân hoan hiện trên mặt các sĩ quan của bộ tổng tham mưu hiện diện.
Tổng thống nói tiếp:
Người ta nói với tôi là quân viện không có, lòng người không có,
bây giờ tiếp tục đánh thì đánh bằng cái gì. Tôi trả lời ngay cho các anh
hôm nay. Lòng người không có thì làm cho có. Cháo nguội thì hâm lên cho
nóng. Còn phương tiện không có thì,
Nói đến đây ông nhấn mạnh từng chữ một:
“Đánh bằng cùi chỏ.”
Vừa nói ông vừa đưa khuỷu tay lên.
Lại một lần nữa, chữ nghĩa và hành động của ông tạo xúc động lớn lao cho cử tọa.
Tiếng vỗ tay cuồng nhiệt kéo dài…
Khi mọi người dịu xuống, ông nói vào vấn đề:
-“Như các anh đã biết, chúng ta đã xây dựng miền Nam qua 20 năm, có
trật tự thanh bình và tự do dân chủ. Suốt cuộc đời binh nghiệp tôi không
hại ai. Suốt cuộc đời chính trị tôi không giết ai. Anh em sĩ quan cao
cấp chúng ta, ai cũng đã có thời trách nhiệm lãnh đạo chỉ huy, bây giờ
là lúc sống chết. Bây giờ không phải là lúc tham quyền cố vị mà ở lại.
Muốn có hòa bình, muốn có thương thuyết, muốn có hòa giải phải ở vào thế
mạnh. Đêm hôm qua tôi đã đọc hết tài liệu đề nghị của các anh em đại tá
tại bộ tổng tham mưu. Các anh đưa cho đại tá Đỗ ĐứcTâm trình tôi. Sáng
nay tôi hỏi lại thì đại tướng tổng tham mưu trưởng cũng không biết.
Nhưng không hề chi. Tôi chấp thuận kế hoạch này. Tôi đồng ý đây là giải
pháp cuối cùng. Lấy chiến tranh nhân dân để chống lại chiến tranh nhân
dân. Kể từ giờ phút này anh em chiến hữu ngồi với tôi hôm nay là thành
viên của hội nghị Diên Hồng. Các anh cũng là thành viên của hội đồng an
ninh quốc gia mở rộng.
Tôi quyết định ban hành lệnh tổng động viên toàn miền Nam theo kế
hoạch Diên Hồng 75. Từ nay không phải chỉ có thanh niên đi lính mà là
toàn dân đánh giặc.
Không cắt đất, không bỏ dân, không rút quân, không tái phối trí. Ở
đâu ở đó. Sức yếu thì co cụm lại. Còn sức thì bung ra. Địch pháo thì đào
hầm mà chui xuống. Hết pháo thì chui lên mà đánh.
Nội chiều nay, tôi sẽ họp nội các chiến tranh với cụ Hương và các
tướng lãnh. Sẽ công bố việc bổ nhiệm nhân sự cho các quân khu, các quân
đoàn, các sư đoàn, các tiểu khu và các đô thị.
Với chủ trương toàn dân đánh giặc thì các trường trung học và đại học
sẽ trở thành các trại binh. Sẽ không học hành gì từ nay cho đến hết năm
1975. Hai mươi năm qua chúng ta vừa chiến đấu vừa xây dựng. Chiến tranh
có hậu phương có tiền tuyến. Có dân sự có quân sự. Nhưng bây giờ sẽ chỉ
có chiến đấu mà tạm gác phần xây dựng. Sẽ chỉ có tiền tuyến mà không có
hậu phương. Sẽ chỉ có quân sự mà không còn dân sự.
Ông kết luận:
“Tôi nghĩ rằng các anh đã hiểu được ý của tôi cũng như tôi đã
hiểu được đề nghị của các anh gởi đến cho tôi đọc đêm hôm qua. Xin nói
thêm rằng, sau trận này, tương lai đất nước nằm trong tay các anh, những
sĩ quan trẻ của quân đội.
Bây giờ các anh về suy nghĩ xem mỗi người phải làm gì. Phải làm ngay
lập tức. Cộng sản đã giữ thế chủ động từ 1968 qua 1972 cho đến nay trên
chiến trường và trên bàn hội nghị. Bây giờ chủ động phải là phần của
chúng ta. Dù phải chết, chúng ta cũng sẽ chủ động chọn cho mình cái chết
xứng đáng. Tôi cho ban hành ngay toàn bộ kế hoạch Diên Hồng 75 từ giờ
phút này…
Hội nghị giải tán, rải rác đó đây trên mặt bàn còn lại những khúc
bánh mỳ Bưu điện. Ông Thiệu cầm phần bánh mỳ nói với sĩ quan tùy viên
cho vào cặp sách. “Lát nữa ăn”
Nội các chiến tranh:
Buổi họp của nội các chiến tranh 75 bao gồm cả 2 vị thủ tướng cũ và
mới. Đại tướng Trần thiện Khiêm và ông chủ tịch hạ viện Nguyễn Bá Cẩn.
Các vị tân bộ trưởng gồm đủ mặt, các bộ trưởng cũ hiện diện được hơn
phân nửa. Ông Thiệu lại nhắc qua về nội dung hội nghị Diên Hồng buổi
trưa và vận động mọi thành viên tích cực trong giai đoạn cam go nhất của
đất nước. Như đã chuẩn bị trước, ông trao tặng cho các vị dân sự mỗi
người một nón sắt nhà binh và một xẻng gấp cá nhân. Ông nói mỉa mai rằng
đây là món quà cuối cùng của Mỹ giúp Việt Nam chiến đấu.
Sau đó các vị bộ trưởng và chuyên viên ra về, thành phần chính phủ
thu hẹp được ngồi lại nghe tổng thống Thiệu ban hành các chỉ thị cụ thể.
Trong các bộ trưởng, ông mời riêng luật sư Vương Văn Bắc ngồi lại.
Với tình thế biến chuyển và nhận thấy tổng thống Thiệu dường như trở
thành con người khác với một quyết tâm hết sức mãnh liệt, các vị trong
nội các và tướng lãnh hết sức ngạc nhiên. Tuy nhiên gần như không ai
đóng góp ý kiến hay đặt câu hỏi, trừ phó tổng thống Trần Văn Hương. Ông
Thiệu cho biết, từ nay ông sẽ đặt văn phòng tại bộ tổng tham mưu làm
việc trực tiếp với các tư lệnh quân khu. Ông đặt 2 vị tướng cao cấp
trong chức vụ cố vấn. Đại tướng Viên cố vấn quân sự và đại tướng Khiêm
cố vấn nội vụ.
Ông cho biết là ngay buổi chiều, sau hội nghị Diên Hồng tại câu lạc
bộ tổng tham mưu, ông đã điện thoại ra lệnh bổ nhiệm các chức vụ tư lệnh
quân đoàn kể từ ngày 15-3-1975. Tổ chức miền Nam thành các quân khu độc
lập trong cuộc chiến phòng thủ diện địa. Vùng 4 chia làm 2 quân khu.
Tiền Giang và Hậu Giang.
Tướng Lê Văn Hưng phó của ông Nam lên làm tư lệnh quân khu Hậu Giang.
Chủ lực là sư đoàn 21, trang bị để thành lập thêm một sư đoàn biệt động
quân và một sư đoàn Bảo An Hòa Hảo.
Tướng Trần văn Hai, tư lệnh quân khu Tiền Giang với sư đoàn 7 bộ binh và thêm một sư đoàn biệt động quân tân lập.
Tướng Nguyễn Khoa Nam ra thay tướng Ngô Quang Trưởng tại quân khu I.
Tổng thống nói thêm: “Anh Thọ phòng 3 TTM nghiên cứu ngay cho tôi xem có
cần chia miền Trung ra 2 khu vực phòng thủ Bắc và Nam Hải Vân? Ngay bây
giờ thì ông Nam vẫn trách nhiệm toàn thể miền Trung. Vùng II cũng chia
làm đôi. Tướng Nguyễn Văn Toàn từ Biên Hòa trở lại thay thế tướng Phú
trên quân khu Cao nguyên. Phần đất của quân khu Duyên hải sẽ có vị tư
lệnh mới là tướng Hoàng cơ Minh.Còn vùng III giao cho tư lệnh phó là
tướng Nguyễn Văn Hiếu. Phó tổng thống Trần Văn Hương hết sức hài lòng
với việc bổ nhiệm vị tướng lãnh thân thiết của ông vào chức vụ tư lệnh
quân khu miền Đông. Nhưng cụ vẫn thắc mắc về việc tiếp tục xử dụng tướng
Toàn. Ông Thiệu cho biết ông Toàn là người đã từng ở Pleiku và bây giờ
tình nguyện trở lại.
Tình thế hiện nay gần như không có vị tướng nào có khả năng mà lại
tình nguyện lên cao nguyên. Qua điện thoại tướng Toàn có hỏi ông Thiệu
là được đem theo những ai, sẽ được yểm trợ gì khi lên vùng II. Tổng
thống trả lời là anh đem theo một cỗ quan tài và anh sẽ chết ở Pleiku.
Tướng Toàn hiểu ý và đáp ngay bằng tiếng Pháp:
A vos ordres Monsieur le President, (Xin tuân lệnh ngài tổng thống).
Với tướng Nguyễn Khoa Nam, tổng thống Thiệu nói riêng: “Anh sẽ thường trực tại Huế và trấn giữ đèo Hải Vân”.
Tướng Nam thưa rằng: Tôi hiểu ý tổng thống. Huế là quê hương của tôi.
Ông Thiệu tiếp lời, Tôi sẽ rút toàn bộ nhẩy dù về Saigon. Anh phải
dùng tất cả 3 sư đoàn 1,2 và 3 cho mặt trận Quảng Trị. Tái tổ chức địa
phương quân, nghĩa quân cho các tỉnh duyên hải. Thành lập một sư đoàn
biệt động quân phòng thủ Đà Nẵng.Với tổng kho Đà Nẵng, toàn thể quân dân
miền Trung sẽ trở thành một quốc gia biệt lập. Anh sẽ không trông cậy
gì ở Saigon. Nam hiểu không? Sẽ không có chuyện di tản. Có thể hy sinh
một vài thị trấn phía nam Đà Nẵng nhưng phải giữ Huế bằng mọi giá. Lập
một danh sách những người lần lượt thay thế khi Nam nằm xuống. Tôi sẽ
chỉ thị cho tư lệnh hải quân tăng cường tối đa cho đề đốc Hồ Văn kỳ
Thoại hải pháo bờ biển Quảng Bình rồi dùng toàn thể sư đoàn thủy quân
lục chiến tấn công cửa Việt để giải tỏa áp lực phía Bắc.
Tướng Nguyễn Khoa Nam vô cùng xúc động trả lời: Em xin hết sức, thưa
đại ca. Đây là ngôn ngữ ông Nam thường dùng để nói với Tổng thống.
Nghe xong chuyện điện thoại do ông Thiệu kể lại, cụ Hương hỏi thêm về
chức vụ tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tổng thống cho biết tướng Lê nguyên Vỹ
tân tư lệnh từ Lai Khê bay về đang đi thanh sát vòng đai phòng thủ Sài
Gòn. Sư đoàn 5 bộ binh giao cho đại tá Hồ ngọc Cẩn cùng với sư đoàn biệt
đông quân mới thành lập sẽ chuẩn bị đánh Lộc Ninh. Quận lỵ này đang
được coi là thủ đô của Việt cộng miền Nam.
Tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn cho biết nội các của ông còn thiếu nhiều
nhân sự. Với hoàn cảnh hiện nay nhiều chuyên gia và nhân sĩ ngần ngại
tham chính.
Tổng thống Thiệu nói rằng: “Hiện có nhiều trung tướng và thiếu
tướng rất có khả năng nhưng chưa có chức vụ. Sau khi đưa một loạt tướng
trẻ ra cầm quân, các tướng lãnh thâm niên có thể tạm thời qua làm việc
với tân nội các, ít nhất là trong năm nay”.
Quay sang ông Cẩn, tổng thống nói tiếp: “Anh về thuyết trình cho
quốc hội vận động tất cả nghị sĩ và dân biểu đưa vợ con về đơn vị gốc để
cùng sống chết với cử tri. Sau đó anh cho các vị bộ trưởng và chuyên
viên nghiên cứu để làm sao cho toàn thể xã hội có cuôc sống thích ứng
với hoàn cảnh chiến tranh. Kể từ ngày 15/3/1975 lệnh giới nghiêm ban
hành trên toàn thể miền Nam. Các trường học tráng niên đóng cửa. Quân sự
hóa toàn quốc. Các xe tư nhân cấm lưu thông, các xe hàng trưng dụng để
chở quân và dành cho các chương trình huấn luyện. Bộ tổng tham mưu tăng
cường cho TQLC và nhẩy dù mỗi sư đoàn thêm một lữ đoàn tân lập. Thành
lập 6 sư đoàn Biệt động quân cho các quân khu và Biệt khu Thủ đô. Dùng
các tiểu đoàn và liên đoàn biệt động quân làm nòng cốt. Trang bị lại cho
1 sư đoàn Hòa Hảo và một sư đoàn Cao Đài bằng tất cả vũ khí hiện có”.
Tướng Nguyễn Khắc Bình được lệnh thành lập tại mỗi tỉnh một lữ đoàn
cảnh sát và cũng như vậy tại các quận đô thành. Ông Bình báo cáo là toàn
quốc hiện có 130,000 cảnh sát sẵn sàng chiếu đấu. Tổng thống nói tiếp.
Đoàn ngũ hóa là ưu tiên khẩn cấp. Quân huấn tổ chức chương trình huấn
luyện căn bản quân sự một tuần. Ba bài học chính, nghe lệnh, đào hầm và
cận chiến. Thực tập tác chiến trong thành phố. Sau đó cho ra trận, vừa
đánh vừa học.Trang bị nhẹ cho nhân dân tự vệ trong giai đoạn đầu. Tổ tam
tam chế. Hai súng một dao. Hay hai dao một súng. Một người ngã xuống,
súng vào tay người còn lại. Đưa tất cả các sinh viên sỹ quan về nguyên
quán chỉ huy nhân dân tự vệ. Phụ nữ độc thân hay không có con nhỏ cũng
đoàn ngũ hoá. Mở thật rộng vòng đai bảo vệ thủ đô.
Bộ ngoại giao được lệnh loan báo cho các ngoại giao đoàn và công ty
ngoại quốc tuyệt đối không được rời khỏi Việt Nam sau ngày 1/4/1975. Chỉ
dành 15 ngày cuối trong tháng 3 để di tản người ngoại quốc. Sau đó hải
cảng và phi cảng sẽ đóng lại. Chỉ có cửa đến mà không có lối đi.
Luật sư Bắc cho lệnh các tòa đại sứ vận động toàn thế giới tự do lên
tiếng và yểm trợ cho Việt Nam. Vận động nhận lính tình nguyện, nhận viện
trợ dầu xăng. Yêu cầu thế giới tự do áp lực Trung Cộng. Riêng ông bộ
trưởng, tôi muốn ông công khai loan báo tìm đường để Việt Nam Cộng Hòa
mật đàm với Anh, Pháp, Trung Cộng và Nga Sô. Thu xếp họp song phương.
Nói chuyện riêng với từng nước.
Danh sách cộng sản nằm vùng tại Saigon đã có sẵn. Tổng giám đốc công
an Saigon sẽ hành quân cảnh sát trong đêm 15/3/75 đem nhốt chung vào khu
phái đoàn cộng sản trong Tân sơn nhất cùng với ủy hội quốc tế.
Tổng thống ra lệnh rõ ràng cho tướng Nguyễn Khắc Bình: Anh nói
với tòa đại sứ Mỹ trong một tuẩn lễ phải đưa cộng sản, thân cộng và ủy
hội quốc tế ra khỏi miền Nam. Muốn đem đi đâu thì đem.
Tướng Bình dè dặt hỏi lại: Nếu Mỹ không làm được thì sao. Còn dư luận quốc tế.
Ông Thiệu đáp ngay: Cho công binh gài mìn chung quanh. Đúng một
tuần không chở đi thì cho nổ luôn. Chắc chắn nó sẽ chở đi. Anh muốn
không phải nổ mìn thì ngày mai anh cắt điện, cắt nước, không tiếp tế
thực phẩm. Ba ngày là Mỹ phải đem C130 chở đi hết.
Còn quốc tế không cần lo. Mình chết quốc tế có quan tâm không. Mình đánh quyết tử còn cần gì dư luận quốc tế.
Quay lại phía các vị đại tá của phủ tổng thống Võ văn Cầm, Vũ Quang
Chiêm, Trần Thanh Điền, Đỗ đức Tâm, tổng thống nói thêm. Từ nay tôi
tuyệt đối không tiếp xúc, không liên lạc với Hoa Kỳ. Về ngoại giao tòa
đại sứ gặp ngoại trưởng Vương văn Bắc, về tiếp vận quân sự gặp trung
tướng Đồng Văn Khuyên. Các chính khách, các vị lãnh đạo tôn giáo nếu cần
thì gặp thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn.
Khi thấy tướng Khuyên đứng lên nhận chỉ thị, Tổng thống Thiệu nói
tiếp, ông tiếp vận lấy hết sáng kiến để giúp cho đất nước tiếp tục đánh
giặc bằng cùi chỏ. Bảo vệ tổng kho Long Bình, kho đạn thành Tuy Hạ, kho
xăng Nhà bè. Ông làm sao tất cả xe phải chạy được, thiết giáp phải lăn
bánh, tàu bay phải bay. Cho hoạt động công khai dự án công binh xưởng
lâu nay vẫn dấu Mỹ. Ưu tiên đạn M16, lựu đạn, xẻng cuốc và dao đánh cận
chiến. Tập trung tất cả thợ máy dân sự, thợ hàn, thợ tiện để chắp vá cho
mọi thứ chạy việc. Ông có toàn thể khối chuyên viên dân sự đưa vào làm
việc. Chỉ cần đào hầm chạy pháo, khi nó đến gần thì chui lên dùng dao
bếp mà chiến đấu.
****
Sau đó trong 45 ngày liên tiếp từ 15 tháng 3 đến 30 tháng 4-75, cuộc chiến khốc liệt đã xẩy ra trên toàn thể miền Nam.
Với 3 sư đoàn cơ hữu, sư đoàn 1, 2 và sư đoàn 3 tướng Nguyễn khoa Nam
chặn địch tại phòng tuyến sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Tổn thất hết sức
cao.
Sư đoàn thủy quân lục chiến đổ bộ vào cửa Việt đánh bọc hậu 2 sư đoàn
cộng sản gây bất ngờ cho Hà Nội, nhưng bên ta bị tổn thất nặng nề. Chỉ
một nửa quân số lính mũ xanh mở đường máu, trở về được bên này phòng
tuyến. Hà Nội phải mở chiến dịch phòng vệ toàn bộ duyên hải miền Bắc và
đồng thời hết sức lo lắng vì Trung Cộng đề nghị đem chí nguyện quân vào
tiếp tay. Tàu vào được sẽ trở thành chủ động trong chiến tranh Việt Nam.
Cho đến cuối tháng 4, hồng quân Trung Hoa vẫn còn trấn đóng 2 quân đoàn
ở biên giới.
Trong suốt một tháng rưỡi làm tư lệnh quân đoàn 1, tướng Nguyễn Khoa
Nam chưa bước chân vào Đà Nẳng. Ông ở lại với bộ tư lệnh tiền phương tại
Huế và luôn luôn có mặt tại tuyến đầu Quảng Trị. Đà Nẵng và các thành
phố xứ Quảng toàn thể quân dân được lệnh tử thủ, ở đâu sống chết tại
chỗ.
Tại quân đoàn II mặt trận cao nguyên bị nhiều tổn thất. Kon Tum bị
tràn ngập. Quảng Đức hoàn toàn thất thủ sau những trận đẫm máu.Tất cả
các tiểu khu và các đơn vị đều hy sinh từ tỉnh trưởng đến các binh sĩ.
Tướng Toàn nằm dưới căn hầm hết sức kiên cố trong suốt tháng tư đã làm
cho Pleiku trở thành một An Lộc của năm 75. Chịu đựng có khi lên đến
5000 quả pháo một ngày, nhưng đến 30 tháng 4 vẫn còn liên lạc được với
Saigon. Tướng Hoàng Cơ Minh tân tư lệnh ngày đêm hoạt động trên mặt trận
duyên hải. Đón quân tại đây rồi lại đổ quân tại chỗ khác. Tưởng mất Quy
Nhơn rồi lại lấy lại được. Nha Trang cũng cùng chung số phận. Lúc mất
lúc còn.
Trên cao nguyên sau hai tuần lễ chưa dứt điểm Pleiku, cộng sản quyết
định tiếp tục bao vây quân đoàn II nhưng đem đại quân đánh thẳng xuống
duyên hải. Saigon đưa toàn bộ sư đoàn Dù mở mặt trận Khánh Dương chặn
đứng địch quân. Toàn bộ không quân chiến thuật miền Nam tập trung tại
Cam Ranh giúp cho nhẩy dù phá tan 2 sư đoàn của địch tại đây.
Tại miền Nam, Tướng Lê văn Hưng tân tư lệnh quân khu Hậu Giang tuyên
bố dùng toàn dân quân giữ vững miền Tây. Ông sẽ chỉ giữ lại sư đoàn 21
trải dài từ Cần Thơ đến Cà Mâu. Tướng Hưng rất vui mừng có được sư đoàn
Hòa Hảo và sư đoàn Biệt động quân tân lập. Nếu Hậu Giang ổn định, sẽ
chuẩn bị để đưa sư đoàn 21 lên tăng cường cho miền Đông.
Lệnh xuất quân tại Mỹ Tho tiễn đưa sư đoàn 9 lên đường đánh giặc tại
miền Đông. Để trắc nghiệm khả năng cho cuộc chiến mới, mỗi trung đoàn có
một tiểu đoàn trang bị nhẹ hoàn toàn đi bộ. Phần còn lại đi bằng xe đò
dân sự. Dân Sài Gòn đứng hai bên đường đón đoàn quân của tướng Hoàng văn
Lạc.
Tại Tiền Giang tướng Trần văn Hai, tân tư lệnh quân khu đang cố gắng
tấn công khu Mỏ Vẹt trên đất Miên đã bị chiếm đóng bởi Việt cộng từ
nhiều năm. Với lực lượng sư đoàn 7 và sư đoàn biệt động quân tân lập,
trận đánh vô cùng khốc liệt đã kéo dài 2 tuần lễ.
Tại mặt trận miền Đông lần đầu tiên tướng Nguyễn Văn Hiếu chỉ huy một
lượt 6 sư đoàn bộ binh bao gồm sư đoàn 5, sư đoàn 18 và 25, tăng cường
sư đoàn 9, Có thêm sư đoàn biệt động quân và sư đoàn Cao Đài. Với lực
lượng của 2 quân đoàn, vị tư lệnh trẻ trung và mới mẻ của quân đội đã
đẩy lui địch tại phòng tuyến Long Khánh. Tân tư lệnh sư đoàn 5, đại tá
Hồ Ngọc Cẩn đã bao vây Lộc Ninh nhưng chưa dứt điểm. Quân số miền đông
tổn thất hết sức cao. Từ 15 ngàn ngôi mộ chiếm 1/3 diện tích nghĩa trang
quân đội Biên Hòa vào cuối th áng 4-75, con số tử sĩ tại đây đã lên đến
trên 30,000 người. Đó là chưa kể đến tử sĩ tại miền Trung và cao nguyên
mai táng tại chỗ.
Phía cộng sản chết trên 3 mặt trận lên đến trên 100,000 chiến binh.
Vì bị chặn đứng từ xa nên pháo binh cộng sản không tiến được về gần thủ
đô như đã chuẩn bị. Tuy nhiên suốt 45 ngày sau cùng, Saigon đã đào xong
hơn 100 ngàn hầm trú ẩn và đã nhận hơn 10,000 trái hỏa tiễn. Mặc dù cộng
quân không thực hiện được toàn bộ trận địa pháo như đã dự trù, nhưng
hơn 10,000 dân thủ đô đã tử nạn và hàng chục ngàn người bị thương. Giữa
tháng tư Cộng quân cũng cố gắng đưa vào thủ đô 2 trung đoàn đặc công
phân tán trong vùng Chợ Lớn và tây bắc Sài Gòn. Các đơn vị cảnh sát và
nhân dân tự vệ lần lượt thanh toán chiến trường mà không cần nhờ đến bộ
binh và phi pháo. Vì được lệnh không di tản, hai triệu dân Sài Gòn chiến
đấu ngay tại nhà nên phần lớn lính cộng sản lạc đường đều bị bà con
thanh toán hay bắt sống.
Đoàn quân báo chí toàn thế giới tràn ngập Saigon kể từ khi cầu không
phận Hoa Kỳ thành lập vào ngày 20 tháng 3-75 để đưa phái đoàn cộng sản,
thân cộng, uỷ hội quốc tế sang Thái Lan. Mặc dù có lệnh chỉ dành ra một
thời gian để di tản nhưng không hề có tòa lãnh sự nào, không hề có một
công ty hay tổ chức ngoại quốc nào tìm cách chạy khỏi Saigon. Trong 45
ngày miền Nam chống Bắc quân, đã có hơn 5,000 cựu chiến binh khắp thế
giới tình nguyện đến Việt Nam chiến đấu. Đa số là cựu cố vấn Hoa Kỳ. Đài
Loan và Nam Hàn cuối tháng tư mới xin gửi đến mỗi nơi một tiểu đoàn
danh dự tham chiến. Cũng như đa số tòa đại sứ tây phương, đại sứ Mỹ
quyết định ở lại mặc dù bộ trưởng ngoại giao Kissinger ra lệnh di tản.
Đã có nhiều cuộc biểu tình chống Mỹ tại Sài Gòn nhưng chính phủ sớm dập
tắt. Đệ thất hạm đội Hoa Kỳ được lệnh trở lại biển Đông. Báo chí loan
tin tức về các cuộc mật đàm song phương giữa VNCH và Nga sô, giữa VNCH
và Trung Cộng. Lại thêm các lần gặp gỡ với Anh và Pháp đã làm cho Việt
Cộng vô cùng bối rối. Dư luận thế giới vốn mang nặng ảnh hưởng của phe
phản chiến dần dần nhìn ra cuộc chiến chống xâm lược cộng sản của miền
Nam trong hoàn cảnh tuyệt vọng.
Gió đã có vẻ đổi chiều.
Đại sứ Mỹ cho biết hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ đang họp để duyệt
lại vấn đề Việt Nam. Sau những hy sinh lớn lao của Hoa Kỳ suốt 10 năm,
cuối cùng quyết định bỏ rơi nhưng miền Nam đứng vững được trong tuyệt
vọng. Tình thế sẽ trở thành thảm kịch cho danh dự Mỹ quốc.
Ngày 30 tháng 4-1975 tại Hà Nội, sau khi trung ương đảng họp hai ngày
tổng kết tình hình, tổng bí thư Lê Duẩn tuyên bố: Chiến dịch Hồ chí
Minh tạm thời chấm dứt giai đoạn I với thành quả giai đoạn đầu.Sẽ chuyển
qua giai đoạn II trong một tương lai rất gần. Hà Nội sẽ thống nhất đất
nước vào năm 1976.
Sau đó các lực lượng cộng sản lặng lẽ rút lui khỏi mặt trận cũng bất ngờ như khi khởi sự tấn công.
Trong bữa tiệc khao quân tại dinh Độc Lập ngày 30 tháng 4-75 ông
Thiệu khoe rằng Việt Nam Cộng Hòa đã đánh giặc bằng cùi chỏ, nhưng chỉ
mới dùng một bên cùi chỏ. Báo chí Hoa Kỳ yêu cầu được phỏng vấn, tổng
thống và các tư lệnh vùng đều từ chối và nói rằng: “Rất tiếc, chúng tôi
không nói được tiếng Anh”.
Việt Nam Cộng Hòa không có ngày quốc hận.
Giao Chỉ, San Jose. (tháng tư 2012.)
© Đàn Chim Việt
Hãy xem cuộc sống thanh đạm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi đi kinh lý thăm dân. Vị lãnh đạo quốc gia VNCH nghỉ giấc trưa trên một tấm phên tre đổ nát. Ai nhìn thấy cũng rưng rưng nước mắt..
-
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Giáo sư Robert F. Turner
Trung tâm an Ninh Luật Pháp Quốc Gia
Đại Học Luật Khoa Virginia & Học Viện Hải Quân.
(Trích trong “những sự thật về Chiến Tranh Việt Nam)
Tôi
là một sinh viên trong số tương đối ít ỏi đã thực tin rằng việc chống
Cộng sản xâm lược là việc đúng của Hoa kỳ ở Việt Nam, Lào, Cambodia là
đúng.
Tôi
lần đầu đến Việt Nam trong một giai đoạn ngắn khi là phóng viên năm
1968, rồi quay về đi lính, bắt đầu chức vụ Trung úy rồi sau lên Đại úy
rồi trở lại đó hai lần làm việc tại một bộ phận của toà Đại sứ Hoa Kỳ
tại Việt Nam, là Văn phòng Nghiên cứu về Bắc Việt và Việt Cộng. Tôi có
cơ hội được đi tới nhiều địa phận tại Việt nam, khoảng 44 tỉnh thành, có
chỗ chỉ đi ngang qua. Tôi được qua Lào, Cambodia. Sau khi giải ngũ tôi
gia nhập Hoover Institution, tôi đã viết cuốn sử quan trọng đầu tiên
bằng tiếng Mỹ về “Cộng sản Việt Nam” .
Trong
hơn hai chục năm, tôi đã có nhiều khóa giảng dạy tại viện Đại học
Virginia về Chiến tranh Việt Nam. Vì thời giờ có hạn, tôi phải nói ngắn,
nhưng trước khi đề cập tới chủ điểm của bải thuyết trình, tôi xin có
thêm một lời cảnh báo, nhất là với các khán thính giả trẻ tuổi.
Rằng
đa số lập luận “sáng suốt phổ biến” của người Mỹ về Chiến tranh Việt
Nam thật ra lại không đúng. Rất đáng tiếc rằng điều ấy có nghĩa là đa số
những gì được giảng dạy tại cấp trung và đại học lại gần với thần thoại
hơn là lịch sử. Tôi chi xin đơn cử hai thí dụ, hai thí dụ quan trọng:
1- Ngày
nay, chúng ta được nghe rằng cuộc chiến Việt Nam là “bất khả thắng”.
Chúng ta đứng sai chỗ. Tôi xin được góp tiếng bên cạnh nhiều sử gia
thuộc loại xuất sắc nhất ngày nay khi nêu lập luận ngược rằng chúng ta
không chỉ hy vọng thắng mà thực tế đã thắng vào đầu thập niên 1970. (Và
khi nói “chúng ta”, tôi không nghĩ rằng đấy là Quân lực Hoa Kỳ mà là nỗ
lực chung của hai quân đội miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ cùng với người
dân miền Nam).
2- Chuyện
gì đã xảy ra? Khi tôi tuyên bố là có thể thắng. Tôi xin đưa câu nói của
người bạn thân Douglas Pike: ông Douglas Pike đã quá vãng, người mà tôi
hoán đổi công vụ nhiều lần trong Sứ quán Hoa Kỳ, ông Pike nói rằng: Tôi
tin rằng chúng tôi có thể đã thắng cuộc chiến Việt Nam. Tôi tin rằng
trong tương lai lịch sử sẽ nói rằng chúng ta đã thắng. Đó là sự thật.
Một số thí dụ sau đây sẽ chứng minh.
Có
một bài viết trong báo Foreign Affairs năm 2004 do Giáo sư John Lewis
Gaddis Khoa trưởng Americạn Diplomatic Historians nói rằng: Các sử gia
hiện tại công nhận rằng miền Nam Việt Nam và đồng minh đã thắng cuộc
chiến quân sự. Nhưng lại thua cuộc chiến tâm lý tại Mỹ. Tôi xin nhắc
lại cho quý vị trẻ biết sau khi bị bỏ bom tơi bời Hà Nội vội vã trở lại
đàm phán tại Paris. Và mọi chuyện êm xuôi nếu chúng ta dùng máy bay B52
để trấn giữ hiệp định.
Nhưng
quốc hội với áp lực của “Phong trào Hòa Bình” đã thông qua dự luật vào
tháng năm 1973. Sẽ là bất hợp pháp nếu Tổng Thống sử dụng bất cứ đồng
nào trong công quỹ cho cuộc chiến tại Việt Nam, Lào và Cambodia. Làm như
vậy, Quốc hội đã chuyển thắng thành bại. Quốc hội phản bội lời cam kết
lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước không Cộng sản tại Đông Dương. Lúc ấy tôi làm việc tại Thượng nghị viện, nghị sĩ Ted Kennedy tuyên bố rằng “Việt Nam không cần giúp đỡ, họ đã có lượng vũ khí trị giá vô số triệu đô la”. Đó là sự thật. Việt Nam có phi cơ trực thăng, xe tăng Hoa Kỳ. Nhưng cái mà họ không biết là, Việt Nam không có đạn,
không có xăng. không có phụ tùng. Đống đồ đó trở nên vô dụng. Đây là câu chuyện tôi chưa bao giờ kể cho ai nghe. Ngay sau khi sơ tán từ Việt Nam về tới Mỹ, tôi gặp Nghị sĩ Ted Kennedy tại Thượng Nghị Viện. Đó là lần đầu tiên tôi gặp ông ấy khi trở về Mỹ. Ông ấy đứng cách tôi khoảng 3 mét. Tôi cung tay phải lên và tự nhủ: “mình phải cho nó biết tay, phải đấm gục hắn ta và nói cho thế giới biết rằng chúng tôi vừa mới phản bội chính danh dự của mình và bỏ rơi những người đáng yêu.”
Nhưng
tôi đã tự cản bản thân mình vì làm vậy sẽ ảnh hưởng đến cương vị Nghị
sĩ của tôi và Ted Kennedy sẽ trở thành người hùng. Không phải là việc
làm đúng đắn nhưng đôi lúc tôi nghĩ là mình đã bỏ rơi cơ hội ấy.
Sau
khi Quốc Hội cắt hết viện trợ cho Việt Nam, Trung cộng gia tăng viện
trợ cho Hà Nội. Phạm Văn Đồng nói rằng: “Được cho kẹo tụi nó cũng không
dám quay lại”. Đó là lý do của sự thất bại tại chiến trường Việt Nam.
Quân nhân Mỹ, QLVNCH, và miền Nam Việt Nam không bị bại trận, mà thua vì cái gọi là “tự do” của Quốc hội Hoa Kỳ.
Điềm
thứ 2 tôi muốn đưa lên là: Việt Nam rất quan trọng. Họ cho rằng Chiến
tranh Việt Nam là cuộc chiến “phi lý” tiến hành không lý do chính đáng,
do hiểu lầm về vụ đụng độ không đáng kể ở Vịnh Bắc Bộ. Thật sự là ngớ
ngẩn.
Tôi
đã viết 450 trang trình bày trong luận án đạt giải danh dự năm 1966.
Tôi đã ghi lại vào tháng Năm 1975 đảng Lao động của Cộng sản Việt Nam đã
quyết định từ Tháng Năm năm 1959 là mở ra đường mòn Hổ Chí Minh và gửi
vào Nam nhiều ngàn lính và vô số chiến cụ với mục đích lật đổ chính phủ
trong Nam. Đây là hành động xâm lược quốc tế và vi phạm Hiên chương Liên
hiệp quốc. Hoa Kỳ tham chiền để giúp người dân miền Nam tự vệ vì cùng
một lý do như việc chúng ta tham chiến tại Cao Ly, nhằm bảo vệ tự do của
con người và thực thi việc chống xâm lược đã được ghi trong Hiến chương
Liên hiệp quốc.
Trong
cuốn sách “Cộng sản Việt Nam” xuất bản năm 1975, Hà Nội đã nhiều lần
xác nhận sự thực đó từ Tháng Năm năm 1959 ngay ngày sinh nhật Hồ Chí
Minh. 10 năm trước, chúng tôi đã thảo luận tại Đại học Luật Virginia về
vấn đề hợp pháp này. Luật quốc tế và Hiến chương Liên hiệp. Không thể
thảo luận nối vì Hà Nội lập luận rằng đó là nội chiến trong miền Nam VN
v.v... hãy bỏ qua 1 số điểm vì thời gian có hạn.
Tôi nêu lên hậu quả của việc bỏ rơi VN.
Tôi
có thể nói hoài về việc người Mỹ bỏ rơi Việt Nam. Tôi là người đứng
ngay trong trận khi Quốc Hội biểu quyết không giúp đỡ Angola vì sự xâm
lăng của Xô Viết. Kết quả nạn nhân bị tử vong ở đấy được ước lượng là
không dưới trăm ngàn người.
Đến việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan khiến cả triệu người chết. Sẽ không xảy ra nếu chúng ta không rút lui.
Và
lần đầu tiên trong sáu chục năm, Moscow bảo với tay sai của họ ở Mỹ
châu La Tinh rằng tiến hành “đấu tranh võ trang” để cướp chính quyền thì
cũng được, từ đấy mới xảy ra nội chiến tại El Salvador, Nicaragua,
Honduras, Guatemala, Costa Rica và các nước khác trong vùng. Vô số người
lại thiệt mạng vì chuyện đó. Một số lớn súng M16 tịch thu được từ quân
phiến loạn El Salvador, căn cứ theo số xê ri là súng bỏ lại tại chiến
tranh VN của quân đội Mỹ. Hà Nội đã cung cấp cùng với Xô Viết qua đường
Cuba rồi đưa lậu qua El Salvador.
Cho những người nói chiến tranh VN là phi lý. Họ đã sai.
Nhưng
hôm nay tôi không muốn tập trung về các vấn đề dù rất quan trọng là đia
dư chiến lược. Tôi muốn nói về hậu quả của quyết đinh của Hoa Kỳ đối
với con người.
“Phong trào hòa bình” - của
phe phản chiến - trấn an chúng ta rằng Hoa Kỳ chỉ lần rút quân và chấm
dứt chiến tranh thì mình sẽ phát huy “nhân quyền” và “ngăn nạn tàn sát”.
Tôi rất ngại nói về những gì xảy ra tại Việt Nam sau khi Hoa Kỳ triệt
thoái, vì trong hội trường này và tại khu “Little Sàigon” có nhiều người
đã trực tiếp nếm mùi và biết rõ hơn những gì mà mọi “học giả” Mỹ có thể
muốn biết. Nhưng có một số sự thật thì đã rõ ràng.
Hãy
trước tiên nói về nhân quyền. Tháng Tư năm 1975, khi sự chiến thắng của
Cộng sản đã thành hiển nhiên cho mọi người, Đệ nhất Bí thư đảng Lao
Động là Lê Duẩn đã tuyên bố rằng: sau khi “giải phóng” Miền Nam, chúng
ta sẽ biến nhà tù thành trường học”. Tới Tháng 10 năm 1978, nhật báo
Times đầy uy tín tại Luân Đôn đã báo cáo sự thật: Cộng sản Việt Nam đã
biến nhà trường và cô nhi viện thành nhà tù vì họ có quá nhiều tù nhân.
Điều
11 của Hiệp định Paris ký kết năm 1973 cấm “mọi hành vi trả thù hay kỳ
thị các cá nhân hay tổ chức đã hợp tác với một phe bên này hay bên kia”,
và còn rõ ràng bảo đảm quyền tự do báo chí, tôn giáo, tự do sinh hoạt
chính trị và một loạt những quyền thiêng liêng khác. Vậy mà Tháng Năm
năm 1977, tờ Quân đội Nhân dân công khai thông báo “triệt để cấm mọi
hành vi chống lại chế độ và tước hết mọi quyền tự do của những kẻ không
tin vào xã hội chủ nghĩa”. Bài báo tuyên bố: “Với bọn phản cách mạng...
nhân dân ta dứt khoát xoá bỏ quyền tự do ngôn luận và trừng phạt đích
đáng”.
Sau
đó, một dân biểu duy nhất của Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa được phép tham
gia cái gọi là “Quốc hội Thống nhất” đã tuyên bố: Chế độ mới cai tri
bằng bạo lực và khủng bố. Không có tự do di chuyển hay lập hội; không có
tự do báo chí hay tự do tôn giáo hay... cả quyền tự do có ý kiến
riêng... Sự sợ hãi tràn ngập khắp nơi”
QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ
Tháng Chín năm 1970, Trưởng phòng Sài Gòn của tờ Christian Science Monitor là Daniel Sutherland - ông
bạn của tôi vào thời ấy - có viết một bài dài về “quyền tự do báo chí”
trong Nam. Ông viết: “Dưới bộ luật báo chí mới, Miền Nam bây giờ có một
nền báo chí thuộc loại tự do nhất Đông Nam Á...”. Tôi tin chắc rằng mình
không là người duy nhất trong hội trường này có thề xác nhận điều ấy.
Riêng Sài Gòn thì đã có hơn ba chục tờ báo, và nhiều tờ trong số đó kịch
liệt chống chính phủ.
Dĩ
nhiên là để thu thập dữ kiện về quyền tụ do ấy, tôi thường cầm máy ảnh
lang thang trong Sài Gòn vào những chiều Chủ Nhật được nghỉ. Tôi thấy
bày bán công khai những quyển sách như “Chiến tranh Nhân dân và Quân đội
Nhân dân” của Tướng Võ Nguyên Giáp là cuốn chỉ nam về nổi dậy của Việt
Cộng, vài cuốn của lãnh tụ cộng sản Cuba là Ché Guevarra, và cả các cuốn
sách về hay của Mao Trạch Đông. Sau ngày gọi là “giải phóng”, người
Cộng sản chiếm đóng đã “tạm thời” đình chỉ xuất bản mọi tờ báo hay tạp
chí độc lập. Chưa đầy một tháng sau, mọi tiệm sách báo đều bị đóng cửa
và việc mua bán hay tàng trữ các văn hoá phầm xuất hiện “dưới chế độ
cũ!” đều
bị cấm.
TÙ CHÍNH TRỊ
Một
trong các vấn đề nặng nề nhất là những người chống Việt Nam thường nêu
ra, là cái gọi là “chế độ phát xít” tại miền Nam đã giam giữ hơn 200
ngàn “từ chính trị”. Khi trở lại Đông Dương vào Tháng Năm 1974 - cũng là dịp thăm viếng Cam Bốt và Lào – tôi chú trọng đến việc điều tra những lời cáo giác trên.
Tôi
ghé thăm Linh mục Chân Tín, nổi danh lãnh tụ của “lực lượng thứ ba”
nhưng có lẽ là một cán bộ của Hà Nội. Tôi hỏi ông là tìm đâu ra con số
“202 ngàn tù nhân chính trị?” Ông ta bảo rằng mình đã hỏi các tù nhân cũ
và gia đình thân nhân của họ là họ nghĩ xem có bao nhiêu tù nhân. (Tôi
nghi là họ đã cộng lại tổng số của các câu trả lời). Sự thật thì thời đó
chỉ có khoảng 35 ngàn tù nhân trong tất cả các nhà tù của Miền Nam.
Tôi
cũng gặp một lãnh tụ khác của “lực lượng thứ ba” là bà Ngô Bá Thành,
người nói với tôi rằng định nghĩa của bà về “tù nhân chính trị” có thể
gồm cả người nh Sỉrhan Sirhan, là tay cán bộ người Palestine đã ám sát
nghị sĩ Robert Kennedy vào tháng Sáu năm 1968. Mục đích của hắn, bà Ngô
Bá Thành giải thích là, “chính trị” khi hắn ám sát một ứng cử viên Tổng
thống rất nổi tiếng của Hoa Kỳ .
Rồi còn vụ “chuồng cọp” đầy tai tiếng tại Côn Sơn, được họ mô tả như sau:
,”… xà lim
chôn dưới mặt đất với các đống sắt, đồng trên trần thay vì ở dưới. Mà
trần xây thấp đến nỗi tù nhân không thể đứng được …”
.”… những hố nhỏ được đào dưới đất và che bằng chấn song sắt.”
- “[Mấy hầm
đó] quá hẹp cho những người Việt Nam dù thấp bé cũng không thể nằm duỗi
thẳng và trần quá thấp nên tù nhân khó có thể đứng thẳng người”
Thật
ra, tôi có đến đảo Côn Sơn và thăm những chuồng cọp này. Tôi nghĩ rằng
chúng ta cùng đồng ý là tôi hơi cao hơn đa số người Việt Nam. Vậy mà tôi
chưa thể với tới các chấn song trên trần - vốn cao tới ba thước (khoảng 10 bộ) kể từ mặt đất lên.
Ngay cả lực sĩ Nghiêu Minh (Yao Minh) người Tầu - tay trung phong của đội bóng rổ Rocket's ở Houston bên Texas - cũng chỉ cao tới bảy bộ và sáu phân - hơn
hai thước hai - nên anh ta cũng chẳng gặp khó khăn gì đề duỗi dài trong
căn xà lim một bề thước rưỡi một bề ba thước của cái gọi lả “chuồng
cọp”.
Ít
nhất, một số cán bộ chống Việt Nam đã từng cáo giác chuyện “chuồng cọp”
biết là họ nói láo. Trước khi qua Việt Nam năm 1974, tôi nói với một
người trong số này rằng tôi dự tính sẽ tới nhà tù Côn Sơn đề tự minh xem
tận mắt và anh ta có vẻ khó chịu – có lẽ biết rằng tôi sẽ thấy sự thật.
Anh ta nói rằng vấn đề thật bây giờ chính là tại nhà tù Chí Hòa ở Sài
Gòn.
Vì
vậy sau khi thăm Côn Sơn, tôi xin phép vào xem nhà tù Chí Hòa và chưa
đầy 48 tiếng sau đã được tới đó trong mấy tiếng đồng hồ. Đây không là
nơi mà mình thích sống nhưng cũng chẳng tệ hơn đa số các nhà tù và bên
trong tôi không thấy dấu vết gì của những sự lạm dụng phổ biến. Tôi nói
riêng với vài người Mỹ đã từng ở trong này và họ nói rằng dù có nghe
nhiều lời tố cáo nhưng tất cả đều cho biết là họ không hề nghe thấy
“tiếng gào thét trong đêm vắng” hoặc được báo cáo về nạn tra tấn hay
hành hạ tù nhân.
NGĂN CHẬN TÀN SÁT
Bi
thảm nhất của những người chống Việt Nam là lý luận của họ, rằng cắt
viện trợ cho Miền Nam là Hoa Kỳ sẽ “ngăn được nạn tàn sát”. Họ sai lầm
tới chừng nào. Ông bạn Giáo sư R.J. Rummel của tôi (một người từng được
tuyển liên tiếp cho giải Nobel Hòa Bình) ước lượng là tổng số người bị
giết sau khi miền Nam được “giải phóng” lên tới 643 ngàn.
- Khoảng
100 ngàn bị xừ tử qua quít ngay sau khi Cộng sản nắm quyền. Qua quít vì
cũng chẳng có một hình thức tạm bợ về “tiến trình hợp pháp” hay một toà
án.
- Giáo sư
Rummel cho là 400 ngàn là “thuyền nhân” bị chết ngoài biển cả khi muốn
thoát khỏi chê độ độc tài và đàn áp đã trùm lên quê hương. Cao ủy Ty nạn
của Liên hiệp quốc thì cho là một phần ba những người vượt biên bằng
thuyền đã chết ngoài biển - một số là vì tầu quá đông người bị
chìm, hoặc chết vì đói, vì khát. Nhiều người tử nạn sau khi bị hải tặc
cướp bóc và cưỡng hiếp. Cao ủy cũng tường trình rằng có khoảng 840 ngàn
người tới được Hong Kong hay các nước không Cộng sản ở Đông Nam Á. Nếu
áp dụng tỷ số “chết một phần ba” cho con số này thì ta đoán là có một
triệu 300 ngàn người vượt biên bằng thuyền và khoảng 420 ngàn người đã
chết trên đường tìm tự do.
Con số không xa với ước lượng của Giáo sư Rummel.
Giáo
sư Lewia Sorley, tác giả cuốn sách có giá trị của một dấu mốc là “A
Better War” - một Cuộc Chiến Khá Hơn - mà tôi ân cần giới thiệu đến quý
vị, cho rằng có chừng 250 ngàn sĩ quan và binh lính của miền Nam cũ đã
chết trong các “Trại Cải Tạo” do chế độ Cộng sản lập ra.
-
Khoảng một triệu rưởi người dân miền Nam bị đày vào các khu “Kinh Tế
Mới” để sống trong những điều kiện nghiệt ngã và chừng 48 ngàn đã chết
tại đấy. Tôi biết rằng rất đông người trong cộng đồng này có thể kể lại
những kinh nghiệm thật về “Trại Cải Tạo” và khu “Kinh Tế Mới” và khuyên
các sinh viên ở đây nên tìm ra họ, ghi nhận câu chuyện của họ để làm
chứng liệu cho lịch sử.
CĂM BỐT
Và còn chuyện xứ Căm Bốt nữa.
Khi
Tổng thống Nixon gửi quân đội Hoa Kỳ sang Cam Bốt vào năm 1970 đề yêm
trợ các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa, khuôn viên các Đại học Mỹ bị đóng vì
những cuộc phản đối đầy bạo động chống lại vụ xâm lược “phi pháp”. Thật
ra, về pháp lý thì y như Việt Nam, Căm Bốt là “quốc gia thành viên của
Nghị định thư” - Protocole States - đã được cam kết bảo vệ chống Cộng
sản xâm lăng trong khuôn khổ Hiệp ước SEATO năm 1954. Mười năm sau, và
với tỷ lệ đầu phiếu là 99,6%, khi Quốc hội Hoa Kỳ cho phép Tổng thống
Johnson tham chiến tại Đông Dương. quy chế ấy hoàn toàn có thể áp dụng
cho Căm Bốt như cho Việt Nam và Lào. Nghị quyết ấy của Quốc hội chỉ cần
dẫn chiếu “Protocole
States” của hiệp ước SEATO (South East Asia Treaty Organization). Tôi
thăm viếng Căm Bốt nhiều lần trong năm 1974 và trong nhiều năm đã viết
về Khờme Đỏ. Thời ấy, việc họ là những kẻ sắt máu có dự tính tàn sát
không tưởng tượng nỗi với đồng bào Khờme của họ thật ra chẳng còn là bí
mật. Và dĩ nhiên, khi tôi trở lại Việt Nam vào Tháng Tư năm 1975, một
trong những mục tiêu chính của tôi là đễ cố gắng cứu lấy đám trẻ cô nhi
tại Căm Bốt. Tôi đến quá trễ và có lẽ những đứa trẻ tôi hy vọng cứu được
chắc là đã chết.
Không
hề có một cuộc khảo sát dân số tại Căm Bốt và chẳng ai biết thực sự có
bao nhiêu người đã sống tại nơi ấy. Con số ước đoán về nạn nhân có những
dị biệt lớn, với một số chuyên gia thì cho lả có hơn hai triệu. Tài
liệu khảo cứu khá nhất mà tôi được đọc là của Đại học Yale, nơi mà
Chương trình của Yale về nạn Diệt chủng Căm Bốt ước tính là Pol Pot và
bọn đao phủ của hắn đã thảm sát một triệu bảy trăm ngàn người - hơn 20%
dân số toàn quốc.
Một
bài báo về “các vùng thảm sát” của Căm Bốt trên tạp chí Nattonal
Geographic Today trong số tháng Giêng năm 2004 cho chúng ta những chi
tiết này: “Nhân viên hướng dẫn giải thích rằng đạn quá quý để dùng cho
việc tàn sát. Rìu, dao và gậy tre thật đắc dụng hơn. Còn về trẻ em thì
bọn đồ tể chỉ đơn giản giọng chúng vào thân cây”.
Ông
Douglas Pike đã quá vãng, người mà tôi hoán đỗi công vụ nhiều lần trong
Sứ quán Hoa Kỳ, có viết như sau về hậu quả nhân sinh của việc Hoa Kỳ
bội ước sự cam kết của mình là sẽ bảo vệ người dân của các nước không
cộng sản ở Đông Dương: “Dù có ước lợng dè dặt nhất, có nhiều thường dân
Đông Dương bi bạo sát sau Chiến tranh Việt Nam hơn là tổng số nạn nhân
trong thời chiến, ít ra là hơn hai triệu... Nỗi khổ đau lên tới mức chưa
từng thấy, còn thê thảm hơn những ngày chinh chiến”.
Thật
bi đát vì tôi nghĩ rằng ông Pike có lý. Và tôi lại càng tin rằng cộng
đồng tại đây, đôi khi ngay trong hội trường, có những người có thể cung
cấp những dữ kiện trực kiến về thảm kịch nêu như ta muốn tìm đến họ và
ghi nhận lời chứng của họ. Việc này thì chẳng ai có tâm trí bình thường
lại thích làm, nhưng là điều mà những ai muốn truy lùng sự thật tới cùng
vẫn có nhiệm vụ thực hiện. Chúng ta phải kể lại chuyện này - một cách
chính xác và cẩn trọng – đểngười khác sẽ biết rất lau về sau, khi các
nhân chứng cuối cùng không còn tại thế nữa. Chúng ta phải kể lại, nếu
không chuyện đó sẽ lại tái diễn.
Những
ai thấy bàng hoàng về những chuyện đã xảy ra khi Cộng sản khống chế
người dân Miền Nam và của Căm Bốt hay Lào thật ra không hiểu gì về lịch
sử hiện đại. Nếu quý vị muốn biết rõ hơn về thảm kịch, tôi xin đề nghị
tập sách do nhà Harvard University Press xuất bản có tên là “The Black
Book of Communism” - Cuốn Hắc thư về Chủ nghĩa Cộng sản”. Do một nhóm
trí thức Âu Châu thuộc khuynh hướng trung tả biên soạn, cuốn sách kết
luận là trong thế kỷ 20, chủ nghĩa cộng sản quốc tế đã gây ra cái chết
cho từ 80 đến 100 triệu sinh linh.
Những
ai muốn biết sâu xa hơn về Chiến tranh Việt Nam có thể còn bị lầm lạc
lớn nếu không chịu khó tìm đọc các cuốn sách do chư vị diễn giả nơi đây
hoặc bằng hữu của chúng tôi đã biên soạn.
Đây
là một vinh dự cho tôi khi được thuyết trình trước một cử toạ quan
trọng như hôm nay và trong cơ hội long trọng này. Với những người giận
dữ về sự bội phản của nước tôi 35 năm về trước, xin cho tôi được nói
rằng sự giận dữ này cũng là sự giận dữ của bản thận tôi. Tôi yêu quý Hoa
Kỳ và tin rằng đây là một xứ tuyệt vời nhất trên địa cầu. Nhưng
khi đa số của Quốc hội phản bội nạn nhân của Cộng sản xâm lược họ cũng
phản bội 58 ngàn 200 lính Bộ binh, Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa
Kỳ đã dâng hiến mạng sống trong sự hy sinh cao quý nhất cho chính nghĩa
này. Họ cũng phản bội sự hy sinh của hai triệu bảy trăm ngàn người Mỹ đã
từng phục vụ tại
Việt Nam từ năm 1959 cho đến 1975.
Chúng
ta không cải sửa được điều ác đã xảy ra. Nhưng chúng ta có thể nghiên
cứu nó và có thể hành động để người Mỹ chúng ta lánh xa truyện thần
thoại sai lạc mà hiểu rõ thảm kịch lớn lao của sự bội tín. Tôi thiết tha
kêu gọi giới trẻ trong cử toạ nơi đây là hãy tự nguyện giành một chút
cố gắng để học hỏi trang sử này và chịa sẻ với người khác. Quan trọng
nhất, hãy chú ý đến các cựu chiến binh và những người sống sót trong
cộng đồng, hãy ghi lại lời kể của họ khi mình còn cơ hội. Nếu mình làm
được như vậy thì may ra những hy sinh lớn lao của thảm kịch bi đát này
sẽ không bị uổng phí.
Xin cảm tạ quý vị và cầu xin Thượng Đế sẽ phù hộ chúng ta./.
No comments:
Post a Comment