Mỹ nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số một
Lý Quang Diệu
Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình
Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây
ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lý là điểm mấu chốt
trong trường hợp này.
Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.
Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.
Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận
khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự
Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary
Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị
trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu
tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến
lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù
là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ
biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các
hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm
2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin ,
Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu
vực.
Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong
nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn
định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và an
ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ –
kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia
ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này
Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định
thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý định là một mặt, tài trí
và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn
Quốc và Guam . (Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người Mỹ
rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của
hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người Mỹ
tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân
bằng lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong
khu vực tương đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu
thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài
được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc.
Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực hiện được
hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên
tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền
lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.
Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa
Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải
thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm
những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu
đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi
thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy
giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các
quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải
quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi
Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan
trọng không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối
cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn
người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.
Ví dụ như Việt Nam , là một trong những quốc gia không an tâm nhất về
sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công
miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào
Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó rút lui,
chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng
vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có
thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến
là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu
dài với người Mỹ.
Tôi cũng cảm thấy rất tiếc rằng sự thay đổi cân bằng quyền lực đang
diễn ra vì tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao
giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân
đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam . Họ đưa quân đến bán
đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc hay nam Triều Tiên. Mục
tiêu của các cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Họ đã
muốn ngăn chủ nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như người Mỹ
không can thiệp và tham chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí
chống cộng ở các nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có
thể đã sụp đổ như một ván cờ domino dưới làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho
miền Nam Việt Nam có thời gian để xây dựng lực lượng và tự chiến đấu.
Nam Việt Nam đã không thành công, nhưng khoảng thời gian gia tăng đó
giúp Đông Nam Á phối hợp hành động với nhau và tạo dựng nền tảng cho sự
phát triển của ASEAN.
Singapore khá thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không
biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009
khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc, họ dịch từ
đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn sóng
phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám
nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau
khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không
hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.
Trong cục diện đang thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là
đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của
Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn lại của thế giới, đặc
biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ. Singapore nằm ở
vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ
không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương.
Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ
cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá
và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ. Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây
áp lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ
hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của
Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón
họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một
bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp
tục duy trì trong một thời gian dài.
Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn
ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là
tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng
ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế
giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn. Khi
Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương
Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm
quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần
5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng
Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất
trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore . Tiếng Anh là ngôn ngữ của
cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế
giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang
tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi
trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.
Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao
chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một
lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng
tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc
có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà
chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của
chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì
phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là
người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước
này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là
rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc
tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng
rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.
Cuộc cạnh tranh cuối cùng
Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu
nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và
Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng
những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi
và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất
nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa:
cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các
cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy,
Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa
mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.
Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không
chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn
mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng
hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát
khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở
Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều
nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương
tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó
cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục
diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa
Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần
có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn,
tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu
quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định
sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt
khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển
hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào
thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương
đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô
diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể
Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế
chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ,
nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong
lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang
xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ
không ngủ quên trên đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin vào thành công dài hạn của Hoa Kỳ
Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng
bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ
được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh
vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không
thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một
nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội
Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không
thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng
thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút
nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm
chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp
họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn
có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được
công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.
Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của
mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ
phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh
tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua
quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng
cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là
nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ
được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn
trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram
Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa
Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng
đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore . Ở Anh, bạn
không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không
năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.
Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu
hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều.
Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm
tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn
không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản
thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể
nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không
thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là
tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không
thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có
bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người
Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu
Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước
ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng
kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở
của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời
họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không
cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim
ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể
thắng.
Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung
tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New
York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền
Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi
trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas
thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và
là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh
tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở
Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình
ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng
gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung
thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề
này.
Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần
tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân
theo Washington hay New York . Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một
trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một
tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới
hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người
Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây
là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung
tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả
Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai
là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì
đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge ). Những quốc gia
này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.
Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí
dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật
Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá dầu và ngành công
nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy
động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công
đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải
cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có
thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược
lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn
nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua
việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh
tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các
công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và
Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có
thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với
nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm
được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi
việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo,
tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc
chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất
trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin
thần khởi nghiệp của người Mỹ.
Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành
một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng
sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó
tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất
nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ
số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là
một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng
đẹp đẽ ở New York , bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm
trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng
carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel
Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội
Mỹ.
Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ
chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình
thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có
chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh
mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách
đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên
một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu
sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng
động.
Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm
tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp
tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng.
Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự
nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và
bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà
mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu
về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy
kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng
rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương
mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình
thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất
được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu
tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được
ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao
động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng
cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên
giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của
cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các
cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên
sáng tạo hơn.
Lý Quang Diệu
Thứ Sáu, ngày 30 tháng 5 năm 2014
Dịch: Nguyễn Việt Vân Anh
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Chỉ có kẻ ngu mới chống Hoa Kỳ
Ha ha ha …Ngắn ,gọn và…Chuẩn không cần chỉnh !
Ấy thế mà VN lại “sản sinh” ra được một thằng Hồ Chí Ngu “Ngu Có Lai Sần”, đã từng thề trước mặt Mao Trạch Đông rằng :
“Chống Mỹ Tới Người VN cuối cùng” “Dù phải đốt cả dãy Trường Sơn , dù có phải tát cạn cả cái Biển Đông…cũng phải đánh”…
Giữ đúng lời thề…
Đảng CSVN đã hiến cả dãy Trường Sơn, đã bán “cạn cả Biển Đông”, chỉ còn giữ lại có cái “lai quần”, sau khi đã thành công trong nghĩa vụ “Chống Mỹ để cứu nước…..Tàu” .
Hồ Chí Ngu Vĩ Đại Sống Mãi Trong quần chúng Ta !
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Chỉ có kẻ ngu mới chống Hoa Kỳ
Ha ha ha …Ngắn ,gọn và…Chuẩn không cần chỉnh !
Ấy thế mà VN lại “sản sinh” ra được một thằng Hồ Chí Ngu “Ngu Có Lai Sần”, đã từng thề trước mặt Mao Trạch Đông rằng :
“Chống Mỹ Tới Người VN cuối cùng” “Dù phải đốt cả dãy Trường Sơn , dù có phải tát cạn cả cái Biển Đông…cũng phải đánh”…
Giữ đúng lời thề…
Đảng CSVN đã hiến cả dãy Trường Sơn, đã bán “cạn cả Biển Đông”, chỉ còn giữ lại có cái “lai quần”, sau khi đã thành công trong nghĩa vụ “Chống Mỹ để cứu nước…..Tàu” .
Hồ Chí Ngu Vĩ Đại Sống Mãi Trong quần chúng Ta !