Ngô Nhân Dụng
Vụ ông Dominique Strauss-Kahn bị bắt giữ cho thấy trước một hệ thống pháp luật chạy bình thường, mọi người đều bình đẳng. Giữa một “bồi phòng” vô danh thuộc lớp người “nghèo hèn” và một nhà chính trị có danh vọng quốc tế, không ai hơn kém ai.
Chúng ta không nên xử án ông trong công luận trước khi ông được ra tòa, không cần phê phán về đời tư của ông, nhưng vẫn có thể rút ra những bài học guồng máy công lý.
Dominique Strauss-Kahn đang là giám đốc Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) với thẩm quyền sử dụng hàng tỷ đô la; ông có khả năng cứu nguy nhiều nước ra khỏi nguy cơ phá sản (ông đang thi hành các quyền đó trước khi bị bắt giam) với những món tiền cho vay hàng trăm triệu đô la Mỹ, ảnh hưởng đến công việc và nồi cơm hàng trăm triệu con người. Việc bắt giữ ông ở New York vào tối Thứ Bẩy vừa qua, có thể nói không ngoa, đã làm rung chuyển nhiều thủ đô trên thế giới. Ðáng lẽ ông đã tới Berlin ngày hôm sau để gặp bà Thủ Tướng Ðức Merkel vào hôm sau để thuyết phục bà ủng hộ việc cho Hy Lạp vay thêm tiền lần nữa để cứu kinh tế nước này khỏi suy sụp. Ngày Thứ Hai đáng lẽ ông đã tới Bruxelles để họp với các vị bộ trưởng tài chánh Âu Châu quyết định việc chi thêm tiền cho Hy Lạp, Ái Nhĩ Lan và Bồ Ðào Nha. Ông có thể sẽ thuyết phục họ rằng cứu ba quốc gia này tức là cứu các nước dùng đồng Euro; nếu không cứu thì kinh tế Pháp, Ý, Áo, Tây Ban Nha sẽ gặp nguy hiểm! Nếu kinh tế Hy Lạp lâm cảnh khủng hoảng vì không đủ tiền trả nợ thì tất cả hệ thống ngân hàng trên thế giới sẽ bật đèn đỏ báo động; hậu quả là các nước khác cũng sẽ khó đi vay nợ! Ở Bắc Kinh, Brasilia, người ta cũng xôn xao; không phải vì sợ khủng hoảng tài chánh nhưng họ đã bắt đầu lên tiếng về việc tuyển chọn giám đốc mới cho IMF. Hai nước này muốn mở rộng cho nhiều quốc gia chứ không nên chỉ chọn người từ Âu Châu (ý nói Á Châu và Châu Mỹ La Tinh cũng nhiều nhân tài sẵn sàng ứng cử)!
Tóm lại, Dominique Strauss-Kahn là một nhân vật rất quan trọng! Chắc ông biện lý và ông chỉ huy trưởng cảnh sát New York đã phải suy nghĩ rất kỹ trước khi thi hành việc bắt giữ một người đầy quyền lực như thế. Chắc họ phải phỏng vấn người phụ nữ tố cáo ông Strauss-Kahn cưỡng ép tình dục rất kỹ để thấy có đủ lý do để tạm giam một nhân vật quốc tế. Nếu bắt giữ sai lầm, họ có thể bị khiển trách, ghi vào hồ sơ, sẽ khó được thăng thưởng sau này, có khi còn bị mất việc nữa. Hành động bắt ông Strauss-Kahn đã diễn ra rất gấp và bất ngờ.
Người tố cáo, cô nhân viên khách sạn Sofitel nói cô bị ông Strauss-Kahn tấn công vào buổi chiều khi cô vào dọn phòng. Ðến tối ông đã lên máy bay ngồi vào ghế rồi mới bị mời ra khỏi máy bay, và bắt giữ ngay. Người phụ nữ tố cáo ông là một di dân từ Phi Châu tới, 32 tuổi, có báo nói là cô góa chồng và có một con gái 16 tuổi, có báo nói cô đang sống với chồng, con ở Bronx. Luật sư của cô cho biết cô đã được đưa tới bệnh viện để chữa vết thương nhẹ. Nhưng luật sư của ông Kahn nói không hề có việc sử dụng bạo lực trong vụ này, nghĩa là nếu có chuyện gì xẩy ra còn để lại vết tích thì đó là do sự thỏa thuận của hai bên.
Nếu ra tòa, luật sư của bên tố cáo và của Biện Lý Cuộc New York có thể mời những nhân chứng để cho thấy trong quá khứ ông Strauss-Kahn đã có tiền lệ đối xử với phụ nữ một cách không xứng đáng.
Một người mới tái xuất hiện ở Pháp là cô Tristane Banon, đã từng tố cáo bị ông Strauss-Kahn tấn công trong khi ông mời cô đến phỏng vấn ông vào năm 2002. Năm 2007 cô đã nói chuyện trên một đài truyền hình ở Pháp, mô tả chi tiết cảnh cô giằng co rồi chạy thoát. Bà mẹ của cô Banon, một nhà chính trị cũng thuộc đảng Xã Hội Pháp, hôm Thứ Hai vừa qua kể, năm 2002 bà đã khuyên con gái không nên làm to chuyện. Lý do vì cô sẽ bị tai tiếng trong nghề làm báo, và sẽ khó kiếm việc làm. Hơn nữa, bà nói, chính ông Strauss-Kahn đã ngỏ lời xin lỗi rồi. Nhưng, bây giờ, sau khi vụ New York đăng đầy trên các báo ở Pháp, cô Banon đang nói cô có thể sẽ kiện ông Kahn.
Một nhân chứng khác nữa là bà Piroska Nagy, một nhân viên Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế dưới quyền ông Kahn. Năm 2008, bà khai đã bị ông đã sách nhiễu tình dục, nhưng một hội đồng điều tra của IMF đã kết luận ông không có tội vì mọi liên hệ đều do hai bên thỏa thuận. Nếu Biện Lý Cuộc New York mời được những nhân chứng như trên, họ có thể đưa ra tòa để buộc tội, nói về tật xấu của ông Kahn.
Ngược lại, luật sư của ông có thể tìm cách chứng minh những gì xẩy ra trong khách sạn Sofitel ở New York vào Thứ Bẩy tuần trước cũng là một cuộc trao đổi có thỏa thuận. Ðây là một cuộc tranh luận theo lối “Anh nói thế này, ả nói thế khác.” Kết quả vụ án sẽ tùy thuộc vào những chứng cớ được đưa ra, do tài điều tra và lý luận của các luật sư.
Nhưng phản ứng trong dư luận nước Pháp không giản dị như ở Mỹ. Cựu Bộ Trưởng Văn Hóa Jack Lang mô tả vụ bắt giữ ông Kahn giống như một “cuộc hành hình người da đen” (lynching) để ám chỉ cảnh sát Mỹ có thể kỳ thị một người Pháp. Ông Bernard Debré nhận xét việc đưa ra cảnh ông Strauss-Kahn bị còng tay, râu ria chưa cạo, là một hình ảnh “sỉ nhục đối với IMF và sỉ nhục đối với công nhân Pháp.” Một đạo luật ở Pháp, từ năm 2002, đã cấm không được đưa hình ảnh một nghi can bị còng tay, vì như vậy là vi phạm nguyên tắc mọi người đều được coi là vô tội trước khi tòa tuyên án.
Nước Mỹ không có một đạo luật như vậy; mà có lẽ nên có. Vì một người với hình ảnh bị còng tay có thể sẽ tiêu tan sự nghiệp. Tai hại không khác gì bị tuyên án là có tội. Trong khi chưa có đạo luật tương tự, cảnh sát Mỹ không có quyền cấm các nhà báo không được chụp hình một nghi can khi giải ra tòa, dù người đó bị còng tay. Ở Mỹ người ta đã thấy hình ảnh những đại phú gia hoặc nhân viên cao cấp của các ngân hàng lớn bị còng tay đưa ra tòa vì bị tình nghi trốn thuế. Nghi can sau đó có thể thỏa thuận nộp tiền phạt để khỏi ra tòa, nhưng hậu quả của hình ảnh nhục nhã đó không bao giờ gột bỏ được.
Nhưng đối với dư luận bên Pháp, nhiều người đã đưa ra ý kiến là ông Strauss-Kahn đã bị gài bẫy. Ông đã nổi tiếng là người “đào hoa.” Trước đây hai tuần, được báo Libération phỏng vấn, Strauss-Kahn đã đề cập tới vấn đề này. Tờ báo hỏi nếu tranh cử thì ông nghĩ sẽ gặp những khó khăn thử thách nào. Ông nói rằng khi ông chính thức ra ứng cử (phải ghi danh trong Tháng Bẩy năm 2011) có ba điều sẽ được đối thủ dùng để đánh lại ông: Tiền, đàn bà, và gốc Do Thái (đương kim Tổng Thống Sarkozy cũng gốc Do Thái). Ông Kahn nêu lên cả một thí dụ: ông có thể bị gài bẫy tình dục, “một phụ nữ được trả 500,000 hay một triệu đồng Euro để tố cáo tôi hãm hiếp cô ta trong xe hơi chẳng hạn!” Ông Kahn nói thẳng với nhà báo: “Tôi yêu phụ nữ, thế thì sao nào, Alors?” Theo nhật báo Anh quốc The Telegraph, ông Henri de Raincourt, một bộ trưởng trong chính phủ Sarkozy tuyên bố ông không gạt bỏ giả thuyết ông Strauss-Kahn bị gài bẫy! bà Michelle Sabban, một nghị viên vùng Paris nói, bà tin chắc đây là một vụ âm mưu có tính chất quốc tế, vì nhiều người muốn ông phải ra khỏi IMF! Nhưng đằng nào thì cuối năm nay ông cũng hết nhiệm kỳ.
Chính Tổng Thống Sarkozy đã đề cử ông Kahn vào chức vụ giám đốc IMF bốn năm trước đây, nhiều người cho đó là một cách để đưa một đối thủ chính trị ra khỏi nước Pháp!
Ông Strauss-Kahn đang có triển vọng sẽ được đảng Xã Hội đưa ra làm đối thủ của Tổng Thống Nicolas Sarkozy trong cuộc tranh cử sang năm, mà trong tuần trước điểm dư luận của ông lên cao hơn đương kim tổng thống. Ông thuộc Ðảng Xã Hội Pháp có khuynh hướng trung-tả, nhưng bản thân ông lại được giới bảo thủ bên hữu tin tưởng vì thành tích khi làm bộ trưởng Kinh Tế, đã vận động và đưa nước Pháp vào khối sử dụng đồng Euro làm tiền tệ chung. Vì thế ông có nhiều triển vọng đắc cử tổng thống vào Tháng Tư năm tới. Sau vụ rắc rối này, triển vọng làm một ứng cử viên tổng thống của ông Kahn có lẽ sẽ chấm dứt, mặc dù tương lai chính trị của ông vẫn còn, nếu đóng vai bộ trưởng.
Biện lý có thể sẽ đòi tòa tuyên án nặng nhất, vì hệ thống tư pháp ở Mỹ thường đứng về phía những người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Những người có quyền thế thường bị đề nghị án nặng hơn mức trung bình, nếu nạn nhân thuộc lớp người địa vị yếu kém. Ngoài ra, trong vụ này còn có một khía cạnh khác, là mối tương quan bất bình đẳng giữa người đàn ông và người đàn bà trong xã hội. Người Mỹ rất bén nhậy trong vấn đề này, và hệ thống công lý ở Mỹ thường thiên về phía phụ nữ khi họ tố cáo bị cấp trên sách nhiễu tình dục. Văn hóa ở các nước cổ truyền như tại Á Châu và Âu Châu thì không nhậy cảm như vậy; có lẽ vì thế cô Banon đã giữ im lặng trong nhiều năm qua. Quan tòa ở New York từ chối không cho ông tại ngoại hậu tra, vì sợ khi ông ra khỏi nước Mỹ thì sẽ khó kêu ông trở lại được, như trường hợp nhà đạo diễn Roman Polanski, từng bị tố cáo về tội tình dục, đang còn ở Âu Châu và khó bị dẫn độ về nước Mỹ.
Tuy nhiên, văn hóa các nước đều đang thay đổi, phụ nữ Âu Châu và Á Châu ngày càng mạnh bạo hơn. Khi một viên công an ở Việt Nam đe dọa và sách nhiễu tình dục một người đàn bà sau khi đã bắt giam chồng của bà (đã chết trong khi bị giam), thì chính người phụ nữ đó đã công khai lên tiếng tố giác. Chúng ta không ngạc nhiên khi hai người đầu tiên ở Âu Châu lên tiếng đề nghị ông Kahn từ chức là hai phụ nữ. Bà Maria Fekter, bộ trưởng Tài Chánh Công Nhân Áo nói tại Bruxelles rằng ông Kahn đang làm hại cho uy tín của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Bà Elena Salgado, bộ trưởng Tài Chánh Tây Ban Nha nói rằng nếu cần bày tỏ thái độ, bà sẽ ủng hộ người đàn bà bị tấn công, nếu đúng là có việc tấn công. Ðiều may mắn cho IMF là họ không phải trả tiền án phí trong vụ này, vì ông Strauss-Kahn đi New York về việc riêng, chỉ để thăm con gái ông đang học tại đây, và ông tự trả tiền khách sạn ($3,000/đêm).
Trong khi chờ đợi ra tòa để được thụ lý vào ngày Thứ Sáu tới, ông Strauss-Kahn vẫn được đối xử như một nhân vật quan trọng trong nhà tù ở đảo Rikers, New York. Trong một nhà giam với hàng chục ngàn tù nhân, ông được ở phòng riêng, ăn cơm riêng. Cảnh sát nói họ muốn bảo vệ ông, vì các tù nhân ở Mỹ rất ghét những người bị buộc tội về tình dục. Ngay ở trong nhà tù, hệ thống công lý cũng lo đến quyền lợi của người bị giam cầm. Tại nhà tù này, năm ngoái, một người gác đã bị án 6 năm tù vì ra lệnh đánh một tù nhân. Theo Biện Lý Cuộc, thì nhân viên này đã bảo một thanh niên đánh một thanh niên khác, vì hắn bước ra khỏi hàng. Vào Tháng Hai năm nay, ban giám đốc nhà tù này đã phải bồi thường gia đình một tù nhân bị chết, sau khi đánh nhau với lính gác.
Chúng ta không bao giờ có một hệ thống công lý hoàn hảo. Nhưng một hệ thống tư pháp có lo cho những người yếu thế, bảo vệ sự công đẳng giữa người giầu và người nghèo, giữa người nam và nữ, giữa người gác tù và người bị giam, đó là những điều kiện tối thiểu. Như vụ một du học sinh Việt Nam được tòa án ở San Jose bảo vệ, cảnh sát phải bồi thường cho anh trên 200,000 đô la, vì một cảnh sát đã có cử chỉ bạo hành với anh. Mặc dù anh không phải là công dân Mỹ nhưng quyền lợi của anh vẫn được bảo vệ, vì anh là một con người. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, đó là nguyên tắc chúng ta phải giữ gìn.
Ngô Nhân Dụng www.nguoi-viet.com
Tuần trước, mục này đã nhắc đến cuộc thảo luận (gọi là tọa đàm) ở Hà Nội nói đến nhu cầu đổi mới chính trị tại Việt Nam, vì nếu không thay đổi chính trị thì kinh tế sẽ không tiến được.
Tất cả những lời phát biểu (được đưa lên một mạng của đảng Cộng Sản) quanh đi quẩn lại chỉ tóm lược các ý kiến mà ông Ôn Gia Bảo đã nói công khai ở bên Tầu, từ tháng 8 năm ngoái tới tháng 3 năm nay.
Một điểm “nổi bật” trong cuộc tọa đàm này chính là những lời không được nói tới, ít nhất là không được tường thuật! Các diễn giả chỉ nói rất hùng hồn đến việc “đổi mới chính trị” một cách chung chung, nhưng không thấy ai dám đả động đến những chữ “dân chủ hóa.” Ðiều đó cũng có thể đoán trước được; vì chính ông Ôn Gia Bảo cũng vẫn tránh không nhắc đến ba chữ kỵ húy này khi nói chuyện với đồng bào của ông. Chỉ có ông Ngô Bang Quốc, khi nói ngược lại, thì trình bày những điều rất cụ thể, thí dụ, ông nói Trung Quốc không thể chấp nhận chế độ đa đảng tranh cử, cũng không chấp nhận bầu lên một Quốc Hội giống như các nước tây phương.
Trước đây Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu đổi mới kinh tế sau khi Ðặng Tiểu Bình đã thí nghiệm bên Tầu. Bây giờ nghe bên Bắc Kinh người ta nói đến “đổi mới chính trị,” ở nước ta cũng lập lại giống hệt!
Nhưng liệu Cộng Sản Trung Quốc có thể thực hiện được việc thay đổi về chính trị hay không? Có thể trả lời ngay, việc dân chủ hóa nước Trung Hoa sẽ vô cùng khó khăn. Vì họ sẽ gặp rất nhiều chướng ngại xuất phát ngay trong nội bộ. Trong 30 năm thay đổi kinh tế, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã gieo mầm và nuôi dưỡng những thế lực bảo thủ chống lại mọi thay đổi chính trị. Họ nằm trong các doanh nghiệp nhà nuớc và thế lực của họ hiện nay càng ngày càng mạnh hơn! Ông Tập Cận Ðình lên làm tổng bí thư, dù có muốn cũng khó lòng dân chủ hóa nước Trung Hoa.
Khi ông Ôn Gia Bảo báo động vào tháng 8 năm ngoái rằng Trung Quốc phải thay đổi về chính trị thì mới giữ được các thành quả do cải tổ kinh tế mang lại, người ngoài có thể rất ngạc nhiên. Nhưng các người theo dõi tình trạng kinh tế ở Trung Quốc thì biết rằng ông đang nói một nhu cầu khẩn thiết. Nhìn từ bên ngoài, kinh tế Trung Quốc đang phát triển gần 10% một năm, không có nhu cầu thúc bách nào bắt phải thay đổi. Nhưng nhìn rõ hơn vào tình trạng kinh tế Trung Quốc, thì người ta thấy chứa đầy mâu thuẫn nội tại, không thể giải quyết được nếu không thay đổi cơ chế. Ông Ôn Gia Bảo đã nói đến nhu cầu đặt ra những giới hạn trên quyền lực của những người đang cầm quyền như chính ông ta, nói đến nhu cầu phải để cho người dân được phê phán, được phát biểu ý kiến, và được bầu những người đại diện đích thực cho quyền lợi của họ lên nắm quyền. Nói cách khác, là phải dân chủ hóa.
Giới lãnh đạo như ông Ôn Gia Bảo biết đang có một mối mâu thuẫn ngày càng gay gắt là quyền lợi xung khắc giữa các doanh nhân ngoài đảng và những người nắm guồng máy kinh tế trong đảng. Như Giáo Sư Hoàng Á Sinh thuộc Ðại Học MIT thường nêu lên, kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng trong thập niên 1980 chính là nhờ giới tư doanh, nhưng sau vụ tàn sát ở Thiên An Môn, Cộng Sản Trung Hoa đã chuyển trục, lo củng cố các doanh nghiệp nhà nước và bỏ rơi, phải nói là kỳ thị các xí nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp nhà nuớc ngày càng lớn, lại được đảng Cộng Sản ưu đãi bằng cách cho vay tiền dễ dãi với lãi suất nhẹ. Trong khi đó, các xí nghiệp tư nhân phải đi vay trong một hệ thống “ngân hàng không chính thức” với lãi suất cắt cổ, cao gấp 10 lần lãi suất mà các doanh nghiệp nhà nuớc phải trả. Trong ba năm qua, đảng Cộng Sản lại bơm thêm tiền kích thích kinh tế, đi qua các doanh nghiệp nhà nuớc, tức là nuôi béo những thế lực bảo thủ nhất và kém hiệu năng nhất trong nền kinh tế. Các xí nghiệp tư rất năng động, thì đã bị bỏ rơi từ hai chục năm nay, nhưng vẫn cố tiến lên.
Một hình ảnh tiêu biểu cho tình trạng các xí nghiệp tư là thành phố Ôn Châu trong tỉnh Chiết Giang, với gần 8 triệu dân nhưng đã có 300 ngàn xí nghiệp nhỏ và trung (MSE). Trước đây Ôn Châu chỉ là một làng đánh cá, khi cả vùng này bị đảng Cộng Sản bỏ rơi vì ở bờ biển với núi non bao bọc, rất dễ bị quân đội Trung Hoa Quốc Gia tấn công. Ngay cả khi Ðặng Tiểu Bình cải tổ kinh tế, vùng này vẫn tiếp tục bị bỏ rơi. Chính người dân ở đây đã đứng ra mở mang kinh doanh và làm giầu. Ôn Châu đã trở thành thủ đô của nghề sản xuất máy lửa (hộp quẹt máy), chiếm 70% thị trường thế giới. Ôn Châu sản xuất 20% số giầy dép cho hơn một tỷ dân ở Trung Quốc, mỗi ngày làm ra 40,000 đôi giầy, tức là mỗi giây đồng hồ một đôi.
Một người đã đóng góp vào việc biến Ôn Châu thành thủ đô giầy dép ở Trung Quốc là Lý Viên Niên, bắt đầu kinh doanh năm 1988, với số vốn do thân nhân cung cấp. Năm 1988 là lần đầu tiên Cộng Sản Trung Quốc chính thức công nhận các xí nghiệp tư có từ 8 công nhân trở lên, cho nên hầu hết các công ty tư đều được lập năm đó, mặc dù trước kia họ đã làm chui rồi! (Tại sao Bộ Chính Trị chọn con số 8 làm giới hạn? Vì Karl Marx đã viết rằng khi số công nhân lên trên 8 người thì bắt đầu sản xuất theo lối tư bản chủ nghĩa. Ông Marx viết cái đó hồi thế kỷ 19!) Năm 2007, công ty Cự Nhất (Juyi) của ông Lý đã có 3,600 công nhân và sản xuất 10 triệu đôi giầy, bán trong nước và xuất cảng sang Âu Châu.
Một doanh nhân khác tên Nam Tồn Huy (Nan Cunhui) bắt đầu sự nghiệp với nghề vá giầy, sau vay tiền bà con và rủ bạn bè, ban đêm làm thêm việc chế tạo cái chốt để bật đèn, với những đồ phế thải. Từ đó, anh lập ra công ty sản xuất đồ điện đặt tên là Chính Thái, Chint. Ðến năm 2008, theo nhật báo Financial Times, số bán của công ty Chính Thái lên tới 2 tỷ 300 triệu đô la Mỹ, trở thành công ty sản xuất đồ điện lớn nhất ở Trung Quốc.
Khi Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đã quyết định thay đổi cương lĩnh để thu nhận các nhà tư bản, họ đã nhắm đến chính các nhà tư bản như ở Ôn Châu này. Năm 2007, trong số 300 ngàn xí nghiệp tư đã có gần 4,000 thành lập chi bộ đảng Cộng Sản. Trong phòng hội của công ty Cự Nhất đã treo hình của các lãnh tụ Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao, và Ðặng Tiểu Bình. Công ty Chint thì được ghi công là xí nghiệp tư đầu tiên đã thành lập một chi bộ đảng Cộng Sản, mặc dầu chủ nhân Nam Tồn Huy chưa được gia nhập đảng!
Một doanh nhân khác ở Ôn Châu mà tuần báo Economist kể chuyện, đã bỏ học năm 16 tuổi, vay mượn được 360 đồng nguyên, mua hai cái máy làm mì sợi, rồi mua cái vé xe lửa đem máy đi bán ở một tỉnh trong lục địa, được 480 nguyên. Sau 6 tháng nhiều người bắt chước, anh đổi sang nghề buôn khuy áo, rồi buôn đồ phế thải để chế ra khuy áo, rồi buôn tới máy móc để chế plastic làm khuy. Năm nay anh đang ở Hồng Kông, chuyển sang loại máy móc làm plastic cho các loại đèn LED.
Cuộc khủng hoảng tài chánh đưa tới suy thoái kinh tế ở Mỹ năm 2007, 08 đã lan khắp thế giới, ảnh hưởng tới Ôn Châu và các doanh nghiệp tư ở Trung Quốc. Chủ tịch Hội các Doanh nghiệp cỡ trung và nhỏ tại Ôn Châu, ông Chu Ðức Văn (Zhou Dewen) cho biết trong năm 2010 mức lời của các công ty này xuống tới số không! Những nhà tư bản mới ở Ôn Châu tất nhiên biết tìm cách đem tiền đi đầu tư nơi khác. Họ đã đổ tiền vào địa ốc, họ đã lập ra các quỹ đầu tư như ở Mỹ, góp vốn vào công nghê thông tin, vào mỏ than, vân vân.
Theo phòng thương mại tỉnh ủy Chiết Giang cho biết thì 90% trong số 43 triệu xí nghiệp trong cả nước Trung Hoa là các xí nghiệp tư. Những doanh nghiệp tư này sử dụng 92% số công nhân toàn quốc. Nhưng giới tư doanh ở Trung Quốc vẫn bị gạt ra ngoài hệ thống ngân hàng của nhà nước, họ phải đi vay với lãi suất cắt cổ. Theo Trung Quốc Nhật báo ở Bắc Kinh thì 57% các xí nghiệp và 89% dân chúng Ôn Châu đều đi vay tiền ngoài hệ thống ngân hàng của nhà nước. Lãi suất họ trả thường là 40% đến 80% một năm; có khi lên tới 10% trong 30 ngày (214% một năm) như tờ Economist kể, trong khi các doanh nghiệp nhà nuớc chỉ trả 6% hay 8%. Nhưng hệ thống “tín dụng chui” này sẽ giảm hiệu lực khi các cuộc kinh doanh phát triển cao hơn.
Chính sách kinh tế của đảng Cộng Sản Trung Quốc ưu đãi các doanh nghiệp nhà nuớc, là bộ phận kém hiệu năng, và bỏ mặc cho giới tư doanh xoay trở lấy, mà các xí nghiệp tư thì chạy với công suất cao hơn. Tình trạng kỳ thị, phân biệt này sẽ đưa tới kinh tế trì trệ. Ðảng Cộng Sản vẫn chưa cải tổ được hệ thống ngân hàng, vì các thế lực chống đối trong đảng còn quá mạnh. Các doanh nghiệp nhà nuớc đã trở thành một đảng riêng trong đảng Cộng Sản. Họ liên hệ với nhau qua hệ thống đảng. Họ có tiền để vận động các ủy viên Trung Ương Ðảng và cả Bộ Chính Trị để bảo vệ quyền lợi của họ. Chính họ sẽ bảo vệ chính sách hiện nay, là ưu đãi quốc doanh, kỳ thị tư doanh! Nhưng chính sách đó chắc chắn sẽ đưa tới trì trệ kinh tế. Ðó chính là mối lo lớn đằng sau những lời tuyên bố muốn thay đổi chính trị của ông Ôn Gia Bảo! Nhưng ông khó có thể cải tổ chính trị, vì đụng chạm quyền lợi những người có thế mạnh nhất trong đảng.
Nếu Trung Quốc cải tổ chính trị, thì một Quốc Hội do dân bầu lên sẽ quyết định thay đổi cả chính sách kinh tế. Trong một xã hội dân chủ tự do các xí nghiệp tư cũng có quyền vận động trong các cuộc bầu cử, dân chúng được tự do phán xét và bầu chọn người đại diện. Các doanh nghiệp nhà nuớc sẽ thất thế, vì không một chính quyền dân chủ tự do nào chấp nhận tình trạng độc quyền kinh tế của họ như hiện nay. Cho nên, nhóm lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nuớc sẽ chống đến cùng việc dân chủ hóa Trung Quốc. Thế lực những người khao khát muốn dân chủ hóa thì còn rất yếu.
Khi kinh tế một nước phát triển, một giai cấp trung lưu thành hình, người ta tin rằng chính giai cấp trung lưu này sẽ trở thành động lực thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa. Nhưng giai cấp trung lưu ở Trung Quốc đã đủ lớn mạnh để làm sứ mạng đó hay chưa? Báo The Japan Times ở Nhật Bản vào cuối năm 2010 đã tìm hiểu vấn đề này trên khía cạnh thương mại, với mục đích cho các xí nghiệp ở Nhật biết thị trường tiêu thụ người Trung Hoa lớn hay nhỏ. Theo báo này thì hiện nay giai cấp trung lưu ở Trung Quốc chỉ chiếm độ 23% dân số, khoảng 300 triệu người. Tại các nước kỹ nghệ hóa đã phát triển thì giai cấp trung lưu chiếm khoảng 70% dân số. Các nhà nghiên cứu định nghĩa giai cấp trung lưu ở Trung Quốc là những gia đình có lợi tức hơn 6,000 đồng nguyên (dưới một ngàn đô la Mỹ). Với số lợi tức đó thì họ đang sống rất vất vả trong các thành phố như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, nơi mà giá một căn hộ trong cao ốc (condo) cao từ 200 ngàn đến 400 ngàn, gấp 30 lần đến 50 lần số lương một năm của một gia đình trung lưu. Thị trường tiêu thụ ở Trung Quốc trong năm 2009 chi tiêu khoảng 12 ngàn tỷ đồng nguyên, là một thị trường lớn tương đương với gần 2,000 tỷ đô la. Nhưng trong con số 12 ngàn tỷ đó, gần một nửa là chi tiêu vào việc mua nhà; số tiền còn lại rất nhỏ trong ngân sách các gia đình. The Japan Times kết luận rằng giai cấp trung lưu đang cố gắng để sống chứ không phải là một động lực chủ yếu trong xã hội Trung Hoa. Vậy tiền bạc của cải được tạo ra nhờ cuộc cải cách kinh tế trong hơn 30 năm qua đi đâu? Báo Times trong 10 năm qua đại đa số tiền tiêu thụ là do những người rất giầu có, khoảng 70 đến 80 triệu người là đảng viên hoặc có quan hệ mật thiết với đảng Cộng Sản Trung Quốc. Họ chính là những người sẽ bảo vệ chế độ chính trị hiện nay đến cùng!
Nếu tính ở Trung Quốc có gần 40 triệu xí nghiệp tư (trong đó các xí nghiệp tư do các đảng viên làm chủ có thể cũng lớn) thì con số những người muốn vận động thay đổi chính trị sẽ chỉ bằng một phần ba hay một nửa con số những người không muốn thay đổi.
Cho nên không có hy vọng gì đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ dân chủ hóa được chế độ. Như nhà tranh đấu dân chủ Ngụy Kinh Sinh đã nói khi đến thăm báo Người Việt: Ðảng Cộng Sản Trung Quốc không thể tự thay đổi được! Người dân Trung Quốc phải đứng dậy đòi dân chủ tự do!
Trung Quốc dân chủ hóa được hay không?
Tuần trước, mục này đã nhắc đến cuộc thảo luận (gọi là tọa đàm) ở Hà Nội nói đến nhu cầu đổi mới chính trị tại Việt Nam, vì nếu không thay đổi chính trị thì kinh tế sẽ không tiến được.
Tất cả những lời phát biểu (được đưa lên một mạng của đảng Cộng Sản) quanh đi quẩn lại chỉ tóm lược các ý kiến mà ông Ôn Gia Bảo đã nói công khai ở bên Tầu, từ tháng 8 năm ngoái tới tháng 3 năm nay.
Một điểm “nổi bật” trong cuộc tọa đàm này chính là những lời không được nói tới, ít nhất là không được tường thuật! Các diễn giả chỉ nói rất hùng hồn đến việc “đổi mới chính trị” một cách chung chung, nhưng không thấy ai dám đả động đến những chữ “dân chủ hóa.” Ðiều đó cũng có thể đoán trước được; vì chính ông Ôn Gia Bảo cũng vẫn tránh không nhắc đến ba chữ kỵ húy này khi nói chuyện với đồng bào của ông. Chỉ có ông Ngô Bang Quốc, khi nói ngược lại, thì trình bày những điều rất cụ thể, thí dụ, ông nói Trung Quốc không thể chấp nhận chế độ đa đảng tranh cử, cũng không chấp nhận bầu lên một Quốc Hội giống như các nước tây phương.
Trước đây Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu đổi mới kinh tế sau khi Ðặng Tiểu Bình đã thí nghiệm bên Tầu. Bây giờ nghe bên Bắc Kinh người ta nói đến “đổi mới chính trị,” ở nước ta cũng lập lại giống hệt!
Nhưng liệu Cộng Sản Trung Quốc có thể thực hiện được việc thay đổi về chính trị hay không? Có thể trả lời ngay, việc dân chủ hóa nước Trung Hoa sẽ vô cùng khó khăn. Vì họ sẽ gặp rất nhiều chướng ngại xuất phát ngay trong nội bộ. Trong 30 năm thay đổi kinh tế, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã gieo mầm và nuôi dưỡng những thế lực bảo thủ chống lại mọi thay đổi chính trị. Họ nằm trong các doanh nghiệp nhà nuớc và thế lực của họ hiện nay càng ngày càng mạnh hơn! Ông Tập Cận Ðình lên làm tổng bí thư, dù có muốn cũng khó lòng dân chủ hóa nước Trung Hoa.
Khi ông Ôn Gia Bảo báo động vào tháng 8 năm ngoái rằng Trung Quốc phải thay đổi về chính trị thì mới giữ được các thành quả do cải tổ kinh tế mang lại, người ngoài có thể rất ngạc nhiên. Nhưng các người theo dõi tình trạng kinh tế ở Trung Quốc thì biết rằng ông đang nói một nhu cầu khẩn thiết. Nhìn từ bên ngoài, kinh tế Trung Quốc đang phát triển gần 10% một năm, không có nhu cầu thúc bách nào bắt phải thay đổi. Nhưng nhìn rõ hơn vào tình trạng kinh tế Trung Quốc, thì người ta thấy chứa đầy mâu thuẫn nội tại, không thể giải quyết được nếu không thay đổi cơ chế. Ông Ôn Gia Bảo đã nói đến nhu cầu đặt ra những giới hạn trên quyền lực của những người đang cầm quyền như chính ông ta, nói đến nhu cầu phải để cho người dân được phê phán, được phát biểu ý kiến, và được bầu những người đại diện đích thực cho quyền lợi của họ lên nắm quyền. Nói cách khác, là phải dân chủ hóa.
Giới lãnh đạo như ông Ôn Gia Bảo biết đang có một mối mâu thuẫn ngày càng gay gắt là quyền lợi xung khắc giữa các doanh nhân ngoài đảng và những người nắm guồng máy kinh tế trong đảng. Như Giáo Sư Hoàng Á Sinh thuộc Ðại Học MIT thường nêu lên, kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng trong thập niên 1980 chính là nhờ giới tư doanh, nhưng sau vụ tàn sát ở Thiên An Môn, Cộng Sản Trung Hoa đã chuyển trục, lo củng cố các doanh nghiệp nhà nước và bỏ rơi, phải nói là kỳ thị các xí nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp nhà nuớc ngày càng lớn, lại được đảng Cộng Sản ưu đãi bằng cách cho vay tiền dễ dãi với lãi suất nhẹ. Trong khi đó, các xí nghiệp tư nhân phải đi vay trong một hệ thống “ngân hàng không chính thức” với lãi suất cắt cổ, cao gấp 10 lần lãi suất mà các doanh nghiệp nhà nuớc phải trả. Trong ba năm qua, đảng Cộng Sản lại bơm thêm tiền kích thích kinh tế, đi qua các doanh nghiệp nhà nuớc, tức là nuôi béo những thế lực bảo thủ nhất và kém hiệu năng nhất trong nền kinh tế. Các xí nghiệp tư rất năng động, thì đã bị bỏ rơi từ hai chục năm nay, nhưng vẫn cố tiến lên.
Một hình ảnh tiêu biểu cho tình trạng các xí nghiệp tư là thành phố Ôn Châu trong tỉnh Chiết Giang, với gần 8 triệu dân nhưng đã có 300 ngàn xí nghiệp nhỏ và trung (MSE). Trước đây Ôn Châu chỉ là một làng đánh cá, khi cả vùng này bị đảng Cộng Sản bỏ rơi vì ở bờ biển với núi non bao bọc, rất dễ bị quân đội Trung Hoa Quốc Gia tấn công. Ngay cả khi Ðặng Tiểu Bình cải tổ kinh tế, vùng này vẫn tiếp tục bị bỏ rơi. Chính người dân ở đây đã đứng ra mở mang kinh doanh và làm giầu. Ôn Châu đã trở thành thủ đô của nghề sản xuất máy lửa (hộp quẹt máy), chiếm 70% thị trường thế giới. Ôn Châu sản xuất 20% số giầy dép cho hơn một tỷ dân ở Trung Quốc, mỗi ngày làm ra 40,000 đôi giầy, tức là mỗi giây đồng hồ một đôi.
Một người đã đóng góp vào việc biến Ôn Châu thành thủ đô giầy dép ở Trung Quốc là Lý Viên Niên, bắt đầu kinh doanh năm 1988, với số vốn do thân nhân cung cấp. Năm 1988 là lần đầu tiên Cộng Sản Trung Quốc chính thức công nhận các xí nghiệp tư có từ 8 công nhân trở lên, cho nên hầu hết các công ty tư đều được lập năm đó, mặc dù trước kia họ đã làm chui rồi! (Tại sao Bộ Chính Trị chọn con số 8 làm giới hạn? Vì Karl Marx đã viết rằng khi số công nhân lên trên 8 người thì bắt đầu sản xuất theo lối tư bản chủ nghĩa. Ông Marx viết cái đó hồi thế kỷ 19!) Năm 2007, công ty Cự Nhất (Juyi) của ông Lý đã có 3,600 công nhân và sản xuất 10 triệu đôi giầy, bán trong nước và xuất cảng sang Âu Châu.
Một doanh nhân khác tên Nam Tồn Huy (Nan Cunhui) bắt đầu sự nghiệp với nghề vá giầy, sau vay tiền bà con và rủ bạn bè, ban đêm làm thêm việc chế tạo cái chốt để bật đèn, với những đồ phế thải. Từ đó, anh lập ra công ty sản xuất đồ điện đặt tên là Chính Thái, Chint. Ðến năm 2008, theo nhật báo Financial Times, số bán của công ty Chính Thái lên tới 2 tỷ 300 triệu đô la Mỹ, trở thành công ty sản xuất đồ điện lớn nhất ở Trung Quốc.
Khi Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đã quyết định thay đổi cương lĩnh để thu nhận các nhà tư bản, họ đã nhắm đến chính các nhà tư bản như ở Ôn Châu này. Năm 2007, trong số 300 ngàn xí nghiệp tư đã có gần 4,000 thành lập chi bộ đảng Cộng Sản. Trong phòng hội của công ty Cự Nhất đã treo hình của các lãnh tụ Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao, và Ðặng Tiểu Bình. Công ty Chint thì được ghi công là xí nghiệp tư đầu tiên đã thành lập một chi bộ đảng Cộng Sản, mặc dầu chủ nhân Nam Tồn Huy chưa được gia nhập đảng!
Một doanh nhân khác ở Ôn Châu mà tuần báo Economist kể chuyện, đã bỏ học năm 16 tuổi, vay mượn được 360 đồng nguyên, mua hai cái máy làm mì sợi, rồi mua cái vé xe lửa đem máy đi bán ở một tỉnh trong lục địa, được 480 nguyên. Sau 6 tháng nhiều người bắt chước, anh đổi sang nghề buôn khuy áo, rồi buôn đồ phế thải để chế ra khuy áo, rồi buôn tới máy móc để chế plastic làm khuy. Năm nay anh đang ở Hồng Kông, chuyển sang loại máy móc làm plastic cho các loại đèn LED.
Cuộc khủng hoảng tài chánh đưa tới suy thoái kinh tế ở Mỹ năm 2007, 08 đã lan khắp thế giới, ảnh hưởng tới Ôn Châu và các doanh nghiệp tư ở Trung Quốc. Chủ tịch Hội các Doanh nghiệp cỡ trung và nhỏ tại Ôn Châu, ông Chu Ðức Văn (Zhou Dewen) cho biết trong năm 2010 mức lời của các công ty này xuống tới số không! Những nhà tư bản mới ở Ôn Châu tất nhiên biết tìm cách đem tiền đi đầu tư nơi khác. Họ đã đổ tiền vào địa ốc, họ đã lập ra các quỹ đầu tư như ở Mỹ, góp vốn vào công nghê thông tin, vào mỏ than, vân vân.
Theo phòng thương mại tỉnh ủy Chiết Giang cho biết thì 90% trong số 43 triệu xí nghiệp trong cả nước Trung Hoa là các xí nghiệp tư. Những doanh nghiệp tư này sử dụng 92% số công nhân toàn quốc. Nhưng giới tư doanh ở Trung Quốc vẫn bị gạt ra ngoài hệ thống ngân hàng của nhà nước, họ phải đi vay với lãi suất cắt cổ. Theo Trung Quốc Nhật báo ở Bắc Kinh thì 57% các xí nghiệp và 89% dân chúng Ôn Châu đều đi vay tiền ngoài hệ thống ngân hàng của nhà nước. Lãi suất họ trả thường là 40% đến 80% một năm; có khi lên tới 10% trong 30 ngày (214% một năm) như tờ Economist kể, trong khi các doanh nghiệp nhà nuớc chỉ trả 6% hay 8%. Nhưng hệ thống “tín dụng chui” này sẽ giảm hiệu lực khi các cuộc kinh doanh phát triển cao hơn.
Chính sách kinh tế của đảng Cộng Sản Trung Quốc ưu đãi các doanh nghiệp nhà nuớc, là bộ phận kém hiệu năng, và bỏ mặc cho giới tư doanh xoay trở lấy, mà các xí nghiệp tư thì chạy với công suất cao hơn. Tình trạng kỳ thị, phân biệt này sẽ đưa tới kinh tế trì trệ. Ðảng Cộng Sản vẫn chưa cải tổ được hệ thống ngân hàng, vì các thế lực chống đối trong đảng còn quá mạnh. Các doanh nghiệp nhà nuớc đã trở thành một đảng riêng trong đảng Cộng Sản. Họ liên hệ với nhau qua hệ thống đảng. Họ có tiền để vận động các ủy viên Trung Ương Ðảng và cả Bộ Chính Trị để bảo vệ quyền lợi của họ. Chính họ sẽ bảo vệ chính sách hiện nay, là ưu đãi quốc doanh, kỳ thị tư doanh! Nhưng chính sách đó chắc chắn sẽ đưa tới trì trệ kinh tế. Ðó chính là mối lo lớn đằng sau những lời tuyên bố muốn thay đổi chính trị của ông Ôn Gia Bảo! Nhưng ông khó có thể cải tổ chính trị, vì đụng chạm quyền lợi những người có thế mạnh nhất trong đảng.
Nếu Trung Quốc cải tổ chính trị, thì một Quốc Hội do dân bầu lên sẽ quyết định thay đổi cả chính sách kinh tế. Trong một xã hội dân chủ tự do các xí nghiệp tư cũng có quyền vận động trong các cuộc bầu cử, dân chúng được tự do phán xét và bầu chọn người đại diện. Các doanh nghiệp nhà nuớc sẽ thất thế, vì không một chính quyền dân chủ tự do nào chấp nhận tình trạng độc quyền kinh tế của họ như hiện nay. Cho nên, nhóm lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nuớc sẽ chống đến cùng việc dân chủ hóa Trung Quốc. Thế lực những người khao khát muốn dân chủ hóa thì còn rất yếu.
Khi kinh tế một nước phát triển, một giai cấp trung lưu thành hình, người ta tin rằng chính giai cấp trung lưu này sẽ trở thành động lực thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa. Nhưng giai cấp trung lưu ở Trung Quốc đã đủ lớn mạnh để làm sứ mạng đó hay chưa? Báo The Japan Times ở Nhật Bản vào cuối năm 2010 đã tìm hiểu vấn đề này trên khía cạnh thương mại, với mục đích cho các xí nghiệp ở Nhật biết thị trường tiêu thụ người Trung Hoa lớn hay nhỏ. Theo báo này thì hiện nay giai cấp trung lưu ở Trung Quốc chỉ chiếm độ 23% dân số, khoảng 300 triệu người. Tại các nước kỹ nghệ hóa đã phát triển thì giai cấp trung lưu chiếm khoảng 70% dân số. Các nhà nghiên cứu định nghĩa giai cấp trung lưu ở Trung Quốc là những gia đình có lợi tức hơn 6,000 đồng nguyên (dưới một ngàn đô la Mỹ). Với số lợi tức đó thì họ đang sống rất vất vả trong các thành phố như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, nơi mà giá một căn hộ trong cao ốc (condo) cao từ 200 ngàn đến 400 ngàn, gấp 30 lần đến 50 lần số lương một năm của một gia đình trung lưu. Thị trường tiêu thụ ở Trung Quốc trong năm 2009 chi tiêu khoảng 12 ngàn tỷ đồng nguyên, là một thị trường lớn tương đương với gần 2,000 tỷ đô la. Nhưng trong con số 12 ngàn tỷ đó, gần một nửa là chi tiêu vào việc mua nhà; số tiền còn lại rất nhỏ trong ngân sách các gia đình. The Japan Times kết luận rằng giai cấp trung lưu đang cố gắng để sống chứ không phải là một động lực chủ yếu trong xã hội Trung Hoa. Vậy tiền bạc của cải được tạo ra nhờ cuộc cải cách kinh tế trong hơn 30 năm qua đi đâu? Báo Times trong 10 năm qua đại đa số tiền tiêu thụ là do những người rất giầu có, khoảng 70 đến 80 triệu người là đảng viên hoặc có quan hệ mật thiết với đảng Cộng Sản Trung Quốc. Họ chính là những người sẽ bảo vệ chế độ chính trị hiện nay đến cùng!
Nếu tính ở Trung Quốc có gần 40 triệu xí nghiệp tư (trong đó các xí nghiệp tư do các đảng viên làm chủ có thể cũng lớn) thì con số những người muốn vận động thay đổi chính trị sẽ chỉ bằng một phần ba hay một nửa con số những người không muốn thay đổi.
Cho nên không có hy vọng gì đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ dân chủ hóa được chế độ. Như nhà tranh đấu dân chủ Ngụy Kinh Sinh đã nói khi đến thăm báo Người Việt: Ðảng Cộng Sản Trung Quốc không thể tự thay đổi được! Người dân Trung Quốc phải đứng dậy đòi dân chủ tự do!
No comments:
Post a Comment