Dân Hà Nội có câu tục ngữ nói về 4 nhân vật từng giữ các chức quan trọng nhất thành phố, là các ông Phùng Hữu Phú, chủ tịch; Nguyễn Phú Trọng, bí thư; Hoàng Văn Nghiên, phó chủ tịch và Nguyễn Quốc Triệu, phó bí thư. Câu tục ngữ là: “Giàu như Phú - Lú như Trọng - Lật lọng như Nghiên - Tiêu tiền như Triệu.’’ Lú, hay lú lẫn, tiếng miền Bắc, có nghĩa là không được thông minh lắm.
Ba ông kia không biết đã lên tiếng xác nhận hoặc cải chính lời đồn của người dân hay chưa. Riêng ông Nguyễn Phú Trọng mới đây đã tìm cách chứng tỏ rằng ông không “lú;” qua một bài viết mới xuất hiện vào đầu tháng 5, 2010, nhan đề “Sự phát triển nhận thức của Ðảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay.” Trong bài này ông Nguyễn Phú Trọng muốn chứng tỏ ông rất thông minh, sáng suốt, ít nhất, ông sáng hơn hẳn “Hồ chủ tịch” của đảng ông.
Hiện nay ông Nguyễn Phú Trọng đang làm chủ tịch Quốc Hội, nhưng nhiều người đoán sang năm ông sẽ leo lên làm tổng bí thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam . Muốn chứng tỏ mình xứng đáng được nối nghiệp Nông Ðức Mạnh, ông Trọng viết bài trên để cho thiên hạ thấy ông rất thông thái.
Bài viết của ông Trọng nhắm đề cao bản Cương Lĩnh 1991 của Ðảng đưa ra “quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội.” Mới, tức là không còn là thứ chủ nghĩa xã hội của mấy thế hệ cộng sản cũ nữa. Nếu quý vị độc giả chưa biết chủ nghĩa xã hội là cái gì, thì xin giới thiệu đó là kim chỉ nam của Ðảng Cộng Sản Việt Nam từ gần một thế kỷ nay, qua ba bốn thế hệ rồi. Nhưng muốn đề cao cái cương lĩnh mới năm 1991 thì trước hết ông Nguyễn Phú Trọng phải vạch rõ là trước khi có cương lĩnh này, đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhầm lẫn như thế nào.
Ông Trọng bèn kể tội các thế hệ lãnh đạo đảng ông trước năm 1991. Ông bảo trước đấy đảng của ông đã mang “những quan niệm đơn giản, ấu trĩ.” Ít người khấn vái tổ tiên đời trước của mình bằng hai chữ “ấu trĩ,” tức là con nít; hoặc “đầu óc đơn giản” ý nói là ngu ngốc, suy nghĩ nông cạn, hẹp hòi!
Bản kể tội của Nguyễn Phú Trọng rất dài, nhưng ai đã theo dõi lịch sử nước ta đều có thể thấy nhiều chuyện chứng tỏ trước đây Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã suy nghĩ, hành động đơn giản và ấu trĩ thật. Thí dụ, theo ông Nguyễn Phú Trọng kể, trước đây đảng Cộng Sản đã “không phân biệt được mục tiêu sau cùng với nhiệm vụ trước mắt.” Ông không nói gì cụ thể, nhưng mọi người có thể thấy từ 1955, Ðảng Cộng Sản đã tìm cách tiêu diệt “địa chủ,” đánh tư sản, tính xây dựng chủ nghĩa xã hội ngay tại miền Bắc Việt Nam, mà không biết, như ông Nguyễn Phú Trọng bây giờ mới biết, rằng chủ nghĩa xã hội là một mục tiêu xa, rất xa. Trong bài viết kể trên, ông Nguyễn Phú Trọng nói là hiện nay đảng ông chỉ mới tính đi qua “thời kỳ quá độ,” tức là giai đoạn chuyển tiếp trước khi tới chủ nghĩa xã hội thôi. Mà ông lại khẳng định rằng, “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp!” Bởi vì, ông mô tả: “Lịch sử thế giới đang trải qua nhưng bước quanh co!” Ở nước ta, ông nói thêm, công việc tiến tới chủ nghĩa đó “lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi,” vân vân.
Ông Nguyễn Phú Trọng không chịu tiết lộ cái “thời kỳ quá độ” này nó lâu dài tức là lâu đến bao nhiêu năm, 10 năm, 20 năm hay là phải 100 năm người dân mới thoát cái nợ quá độ? Nhưng đọc bài ông viết thì người đọc cũng thấy ông phê phán các lãnh tụ cộng sản trước năm 1991 là rõ ràng họ không biết gì hết, mà vẫn cứ đòi “xây dựng chủ nghĩa xã hội” ngay từ những năm 1950 cho đến những năm 1980 không chịu cho ai nghỉ mệt!
Những sai lầm ấu trĩ khác mà ông Trọng vạch ra, tóm gọn trong một ý là đảng ông đã không biết kính trọng chủ nghĩa tư bản! Ông viết, Ðảng đã “đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; coi nhẹ những thành tựu, giá trị mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản.” Vì lối nhìn một chiều hẹp hòi “ấu trĩ” đó cho nên, trước Cương Lĩnh 1991 Ðảng Cộng Sản đã “muốn nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư bản;” vân vân. Tóm lại ông Nguyễn Phú Trọng vạch rõ, Ðảng Ta đã sai lầm, toàn những sai lầm căn bản, làm cho cả nước chậm tiến lệt bệt đi sau các nước khác hàng nửa thế kỷ. Sai lầm lớn nhất, như ông Trọng nhấn mạnh, là Ðảng Cộng Sản đã “coi nhẹ các thành quả của chủ nghĩa tư bản!” Ðảng không chịu học tư bản, chỉ vì đầu óc “ấu trĩ” coi những định chế trong xã hội tư bản đều là xấu xa cả; thí dụ như “thị trường,” như guồng máy nhà nước tôn trọng luật pháp và “cai trị bằng luật pháp.”
Tại sao lại nhấn mạnh sai lầm cơ bản của đảng là không biết kính trọng “những thành tựu của chủ nghĩa tư bản” như vậy? Vì ông Nguyễn Phú Trọng muốn biện minh cho những “đổi mới” của đảng ông; thí dụ, bây giờ các đảng viên được đi kinh doanh kiếm lời, thuê mướn và sử dụng sức lao động của giai cấp công nhân. Họ làm giống hệt các nhà tư bản mà thế hệ lãnh tụ cộng sản trước đây, từ Hồ Chí Minh, Lê Duẩn tới Ðỗ Mười vẫn tìm cách tiêu diệt!
Ðọc xong bản kể tội của ông Nguyễn Phú Trọng như trên, bất cứ một đảng viên cộng sản nào, bất cứ người Việt Nam nào (nếu không lú), cũng phải đặt câu hỏi: “Ðảng Ta” đã sai lầm như vậy trong bao nhiêu lâu? Ai là cái đám người “lú lẫn” đưa Ðảng đến chỗ phạm những sai lầm như thế? Và, hậu quả của lú lẫn sai lầm như vậy đưa dân tộc tới đâu rồi?
Ông Trọng không nêu ra những câu hỏi trên. Bởi vì khi suy nghĩ về câu trả lời thì cả lịch sử Ðảng sẽ chỉ là một Quả Lừa vĩ đại!
Vì người đầu têu ra tất cả những quan niệm sai lầm, ấu trĩ đó; người hăng hái cổ xúy, biện minh cho những quan niệm ấu trĩ đó chính là ông Hồ Chí Minh! Cứ đọc các bài trong “Hồ Chí Minh Toàn Tập,” các đảng viên cộng sản sẽ thấy đúng như thế! Hồ Chí Minh đã “chửi bới” xã hội các nước tư bản không hết lời; đã hô hào người Việt Nam theo ông xây dựng chủ nghĩa xã hội “tốt đẹp gấp trăm ngàn lần xã hội tư bản” từ trước khi ông Nguyễn Phú Trọng ra đời năm 1944! Những người được ông Hồ chọn đưa lên kế nghiệp như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Lê Ðức Thọ, vân vân, chỉ răm rắp đi theo những quan niệm “ấu trĩ, sai lầm” đó mà thôi, chứ có ai bày ra cái gì mới đâu!
Cho nên, khi ông Nguyễn Phú Trọng vạch ra những quan niệm đơn giản, ấu trĩ của Ðảng Cộng Sản trước năm 1991, ông đã chứng tỏ rằng Hồ Chí Minh và cả Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã suy nghĩ đơn giản, ấu trĩ, sai lầm nghiêm trọng trong hơn nửa thế kỷ. Ai bảo “Lú như Trọng” là nói oan! Nguyễn Phú Trọng có lú thì cũng không đến nỗi lú như nhiều thằng “ấu trĩ” đời trước! Ðảng viên cộng sản nào vẫn nói với nhau câu “Lú như Trọng” bây giờ nên tỉnh lại.
Nhưng, sau khi nhìn thấy Ðảng Cộng Sản đã phạm các sai lầm tệ hại suốt 70 năm, vẫn không có gì bảo đảm là sau năm 1991 thì Ðảng Cộng Sản bắt đầu đúng! Cứ đọc bài văn của ông Nguyễn Phú Trọng thì rõ khi ông nêu ra và trả lời các câu hỏi “chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào?” Bởi vì câu trả lời của ông chỉ gồm toàn những khẩu hiệu y như cũ: xây dựng dân giàu nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, cuộc sống no ấm, tự do, hạnh phúc, vân vân. Những khẩu hiệu trống rỗng như thế thì đứa bé con đứng ngoài đường cũng hô to lên được! Muốn cho nó giống Mỹ, cương lĩnh mới của đảng còn dùng những chữ của Tổng Thống Lincoln: “nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” nhưng ông Trọng không quên thòng thêm cái đuôi “dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản!”
Tới đây ta lại nhìn thấy một sai lầm cốt lõi của Ðảng Cộng Sản, gây nên bao đau thương cho dân tộc Việt Nam. Ðó là chế độ độc quyền toàn trị mà Hồ Chí Minh đã học của Stalin, Mao Trạch Ðông, đem về áp đặt trên dân tộc ta.
Cứ suy nghĩ về 60 năm lãnh đạo cộng sản sai lầm, người đảng viên nào cũng phải tự hỏi: Tại sao những sai lầm căn bản đó mà suốt bấy nhiêu năm không ai biết và không ai sửa cả? Lý do chính là chế độ độc tài chuyên chế.
Trong một chế độ tự do dân chủ thì nếu một đảng chính trị theo đuổi những tư tưởng chỉ đạo sai lầm, dẫn đất nước vào con đường tai hại, họ cũng chỉ có thể phạm tội trong một, hai nhiệm kỳ, tức là từ 4 đến 8 năm, 10 năm là cùng. Dân sẽ dùng lá phiếu lật đổ một cách hòa bình. Nhưng khi một đảng chiếm độc quyền cai trị hết năm này sang năm khác, suốt thế hệ này sang thế hệ khác, thì họ có thể đưa cả dân tộc xuống vực sâu mà chính họ cũng không ngờ! Vì chế độ chuyên chế không cho phép ai phê phán cả. Ai đã đọc những bài phê bình cuộc cải cách ruộng đất của cố Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường vào thời 1956 đều thấy rằng ông Tường đã nêu ra những hệ quả tai hại khi nhà nước cộng sản coi thường các nguyên tắc cơ bản của pháp luật, những nguyên tắc pháp lý thành hình trong lịch sử nhân loại và đã được áp dụng trong các nước tư bản từ hàng thế kỷ trước. Những Phan Khôi, Nguyễn Hữu Ðang, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Ðức Thảo, vân vân, đã bị chế độ Hồ Chí Minh vùi dập, đầy đọa, chỉ vì không cúi đầu tuân phục các “quan niệm đơn giản, ấu trĩ” của những kẻ cầm quyền thời đó. Ngay cả những đảng viên cộng sản biết suy nghĩ, dám có ý muốn thay đổi như Hoàng Minh Chính, Lê Liêm; hoặc dám có sáng kiến làm khác với chính sách của bọn giáo điều ngu tối, như ủy viên Kim Ngọc, cũng đều bị trù dập hết cả. Cả nước Việt Nam bị Ðảng Cộng Sản đem dùng làm vật thí nghiệm cho những quan niệm sai lầm như thế trong hơn nửa thế kỷ mà cả dân tộc cứ phải cúi đầu chịu đựng. Chỉ vì chế độ độc tài đảng trị!
Nếu còn duy trì chế độ độc tài toàn trị của Ðảng Cộng Sản thì không có gì bảo đảm là những sai lầm của chính quyền bây giờ và mai sau có cơ hội được phơi bày ra và người dân được quyền thay đổi chính quyền bằng lá phiếu tự do!
Trong khi vạch ra các sai lầm của Ðảng Cộng Sản từ những ngày đầu năm 1930 đến năm 1991, ông Nguyễn Phú Trọng đã làm một bảng kết tội Ðảng Cộng Sản rất đáng suy nghĩ. Nhưng ông vẫn còn lú! Ðiều lú lẫn quan trọng nhất của ông là: Muốn duy trì chế độ chuyên chế độc quyền của Ðảng Cộng Sản! Dưới chế độ độc tài như thế, làm sao bảo đảm nhóm người cộng sản cầm quyền bây giờ không phạm những sai lầm nghiêm trọng khác, tiếp tục đưa đất nước vào con đường tối tăm lạc hậu thêm 10 năm, 20, 30 năm nữa?
======
Ở Việt Nam, người ta hay nói đùa: “Đồng bào đừng no. Để Đảng và nhà nước no cho!”
“No”, ở đây, chỉ là biến âm của chữ “lo” (lo lắng, lo toan) theo cách nói ngọng ở một số địa phương miền Bắc. Tuy nhiên, ở đây, tôi sẽ không bàn đến chuyện no hay đói. Tôi chỉ tập trung vào vấn đề lo, lo lắng hay lo toan.
Viết đến đây, tôi sực nhớ mấy câu thơ dân gian nghe được lúc còn ở Việt Nam:
Nhân dân thì chẳng cần lo
Đảng ta lo sẵn bo bo mỗi ngày
Hãy chăm tay cấy tay cày
Nhịn ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang.
Qua mấy câu thơ viết thời ăn bo bo (cuối thập niên 1970), chúng ta thấy luận điệu “Đồng bào đừng lo, để cho Đảng và nhà nước lo” đã có từ lâu. Chỉ vài năm sau thời đổi mới, kiểu nói ấy có vẻ thưa thớt. Mấy năm gần đây, người ta lại nghe rổn rảng những lời như thế. Thanh niên sinh viên xuống đường chống Trung Quốc xâm lấn Trường Sa và Trường Sa cũng như có thái độ gây hấn thô bạo đối với các ngư dân Việt Nam ư? “Các bạn đừng lo! Đó là chuyện đối ngoại, hãy để đảng và nhà nước lo!” Giới trí thức lên tiếng phản đối các dự án cho Trung Quốc khai thác bauxite ở Tây Nguyên hay thuê rừng dài hạn ở nhiều vị trí có ý nghĩa chiến lược ư? “Anh em đừng lo! Đó là chuyện quốc sự, hãy để cho nhà nước lo!”
Không phải không có phần đúng. Chuyện đối nội cũng như đối ngoại là nhiệm vụ của nhà nước. Chỉ có nhà nước (ở Việt Nam, thêm đảng nữa!) mới đủ điều kiện để tiến hành tất cả các công việc nghiêm trọng ấy. Chỉ có họ mới nắm được các số liệu cần thiết để phán đoán và quyết định. Chỉ có họ mới đủ tư cách để đối thoại với thế giới. Chỉ có họ mới đủ quyền lực để hiện thực hoá mọi toan tính ngắn hạn cũng như dài hạn. Quần chúng, kể cả trí thức, có muốn cũng chẳng làm được gì. Từ xưa đến nay, chuyện chính trị bao giờ cũng là chuyện của một thiểu số có quyền lực. Đẩy đất nước vào chiến tranh, cuối cùng, cùng khốn, là cái thiểu số ấy. Làm cho đất nước bình yên và tiến bộ, mọi người no ấm và hạnh phúc, cũng là cái thiểu số đó. Vận mệnh của cả một dân tộc có khi thay đổi hẳn, theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực, chỉ do bàn tay của một người hoặc một nhóm vài người.
Nhưng chúng ta có thể bàng quan, thụ động, phó thác toàn bộ số phận của đất nước, trong đó có bản thân chúng ta, vào tay của một người hay một nhóm người như thế? Không. Làm thế, chúng ta vừa dại dột lại vừa vô trách nhiệm đối với đất nước.
Thật ra, trước đây, đảng Cộng sản cũng từng nhấn mạnh đến vai trò của quần chúng. Về phương diện lý thuyết, họ không ngớt đề cao quần chúng; xem chính quần chúng, chứ không phải cá nhân, bất cứ cá nhân nào, dù là những thiên tài, đã làm nên lịch sử. Về phương diện thực hành, họ cũng không tiếc công sức vận động quần chúng. Thời chiến tranh, nhiều cán bộ nhiệt tình thực hiện chính sách “ba cùng” với dân chúng: cùng ăn, cùng ở và cùng làm. Nhiều người sống hẳn với các dân tộc thiểu số. Cũng đóng khố. Cũng cà răng. Cũng ăn uống kham khổ. Cũng chịu đựng bao nhiêu thiếu thốn.
Vai trò của quần chúng thể hiện chủ yếu ở hai khía cạnh: thứ nhất, đóng góp ý kiến để giới lãnh đạo có được một sự lựa chọn sáng suốt và đúng đắn nhất; thứ hai, hậu thuẫn cho các quyết định của chính phủ để dưới mắt quốc tế, các sức mạnh ấy tăng thêm sức mạnh: đó là quyết định của toàn dân.
Mà không phải chỉ ở Việt Nam. Ở đâu cũng thế. Ở đâu giới lãnh đạo cũng cần sự đóng góp và hậu thuẫn của quần chúng. Bởi vậy, ở đâu cái gọi là lãnh đạo cũng cần đến hai yếu tố căn bản: khả năng hoạch định chính sách và khả năng thuyết phục, hay nói theo ngôn ngữ thương mại hoá ngày nay, là khả năng rao bán các chính sách ấy. Không có khả năng hoạch định chính sách, người ta chỉ là những nhà quản lý chứ không phải là người lãnh đạo. Không có khả năng rao bán chính sách, người ta, với tư cách lãnh đạo, chỉ có thể hoặc là độc tài hoặc là bất tài. Không có ngoại lệ.
Đảng Cộng sản, lúc chưa nắm quyền hoặc thời còn chiến tranh, từng chứng tỏ khả năng rao bán chính sách khá cao, từ chính sách xoá bỏ cách biệt giữa giàu và nghèo trong xã hội, chính sách đoàn kết dân tộc và thống nhất đất nước, v.v… Nhưng thời đó đã qua rồi. Từ tư cách những nhà cách mạng đến tư cách nhà cầm quyền, họ đánh mất khả năng rao bán chính sách và khả năng thuyết phục. Từ đó, hoặc họ chỉ biết ra lệnh hoặc họ quyết định mọi chuyện một cách lén lút. Họ không cần đến quần chúng nữa. “Để cho Đảng và nhà nước lo” là biểu hiện rõ nhất của sự bất cần ấy.
Sự bất cần ấy không những là biểu hiện của độc tài, độc đoán mà còn là nguyên nhân của những quyết định sai lầm từng dẫn đến bao nhiêu tai hoạ cho đất nước. Cải cách ruộng đất vào những năm 1950, cải tạo công thương nghiệp, chính sách giá-lương-tiền nửa sau thập niên 1970 và đầu 1980 là những ví dụ tiêu biểu nhất. Mới đây, cựu Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Dy Niên lên tiếng bày tỏ sự hối tiếc trước những sai lầm trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại thời sau 1975 khiến Việt Nam bị hụt mất bao nhiêu cơ hội may mắn và phải gánh chịu bao nhiêu bất hạnh không đáng có. http://trangridiculous.blogspot.com/2010/04/ong-nguyen-dy-nien-gia-ma-chung-ta-khon.html
Hiểu được điều đó, ông Nguyễn Dy Niên mới nhấn mạnh: “Cho nên phải dân chủ hơn nữa. Vì không có dân chủ thì không thể có trí tuệ. Phải cho người ta nói, nói hết, nhất là tầng lớp trí thức. Để cho trí thức có thể phản biện. Lắng nghe họ, và sau đó có sự điều chỉnh, chứ cứ ào ào nghe xong rồi lại thống nhất như nghị quyết thì thôi, đưa ra làm gì.” http://trangridiculous.blogspot.com/2010/04/30-4-ung-lam-nguoi-ta-au-them-nua.html
Trên thế giới hiện nay, không có đảng hay nhà nước nào có thể gánh vác mọi thứ được. Câu nói “Đồng bào đừng lo, hãy để đảng và nhà nước lo!”, bởi vậy, chỉ là một sự lừa dối. Đó là một sự khinh thường quần chúng.
Nhưng muốn quần chúng tham gia vào chính sự, cần có ít nhất hai điều kiện căn bản: sự minh bạch và quyền được phản biện. Có điều, chính quyền độc tài và tham nhũng nào cũng sợ cả hai điều đó. Toàn bộ sự nghiệp và tài sản của họ đều được xây dựng trên sự thiếu minh bạch của bộ máy nhà nước. Và toàn bộ hào quang về sự thông minh và uyên bác của họ đều được xây dựng trên cái quyền được làm người duy nhất có thể lên tiếng.
======
'Để Đảng và nhà nước lo!' - VOA
Nguyễn Hưng Quốc Blog
Ở Việt Nam, người ta hay nói đùa: “Đồng bào đừng no. Để Đảng và nhà nước no cho!”
“No”, ở đây, chỉ là biến âm của chữ “lo” (lo lắng, lo toan) theo cách nói ngọng ở một số địa phương miền Bắc. Tuy nhiên, ở đây, tôi sẽ không bàn đến chuyện no hay đói. Tôi chỉ tập trung vào vấn đề lo, lo lắng hay lo toan.
Viết đến đây, tôi sực nhớ mấy câu thơ dân gian nghe được lúc còn ở Việt Nam:
Nhân dân thì chẳng cần lo
Đảng ta lo sẵn bo bo mỗi ngày
Hãy chăm tay cấy tay cày
Nhịn ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang.
Qua mấy câu thơ viết thời ăn bo bo (cuối thập niên 1970), chúng ta thấy luận điệu “Đồng bào đừng lo, để cho Đảng và nhà nước lo” đã có từ lâu. Chỉ vài năm sau thời đổi mới, kiểu nói ấy có vẻ thưa thớt. Mấy năm gần đây, người ta lại nghe rổn rảng những lời như thế. Thanh niên sinh viên xuống đường chống Trung Quốc xâm lấn Trường Sa và Trường Sa cũng như có thái độ gây hấn thô bạo đối với các ngư dân Việt Nam ư? “Các bạn đừng lo! Đó là chuyện đối ngoại, hãy để đảng và nhà nước lo!” Giới trí thức lên tiếng phản đối các dự án cho Trung Quốc khai thác bauxite ở Tây Nguyên hay thuê rừng dài hạn ở nhiều vị trí có ý nghĩa chiến lược ư? “Anh em đừng lo! Đó là chuyện quốc sự, hãy để cho nhà nước lo!”
Không phải không có phần đúng. Chuyện đối nội cũng như đối ngoại là nhiệm vụ của nhà nước. Chỉ có nhà nước (ở Việt Nam, thêm đảng nữa!) mới đủ điều kiện để tiến hành tất cả các công việc nghiêm trọng ấy. Chỉ có họ mới nắm được các số liệu cần thiết để phán đoán và quyết định. Chỉ có họ mới đủ tư cách để đối thoại với thế giới. Chỉ có họ mới đủ quyền lực để hiện thực hoá mọi toan tính ngắn hạn cũng như dài hạn. Quần chúng, kể cả trí thức, có muốn cũng chẳng làm được gì. Từ xưa đến nay, chuyện chính trị bao giờ cũng là chuyện của một thiểu số có quyền lực. Đẩy đất nước vào chiến tranh, cuối cùng, cùng khốn, là cái thiểu số ấy. Làm cho đất nước bình yên và tiến bộ, mọi người no ấm và hạnh phúc, cũng là cái thiểu số đó. Vận mệnh của cả một dân tộc có khi thay đổi hẳn, theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực, chỉ do bàn tay của một người hoặc một nhóm vài người.
Nhưng chúng ta có thể bàng quan, thụ động, phó thác toàn bộ số phận của đất nước, trong đó có bản thân chúng ta, vào tay của một người hay một nhóm người như thế? Không. Làm thế, chúng ta vừa dại dột lại vừa vô trách nhiệm đối với đất nước.
Thật ra, trước đây, đảng Cộng sản cũng từng nhấn mạnh đến vai trò của quần chúng. Về phương diện lý thuyết, họ không ngớt đề cao quần chúng; xem chính quần chúng, chứ không phải cá nhân, bất cứ cá nhân nào, dù là những thiên tài, đã làm nên lịch sử. Về phương diện thực hành, họ cũng không tiếc công sức vận động quần chúng. Thời chiến tranh, nhiều cán bộ nhiệt tình thực hiện chính sách “ba cùng” với dân chúng: cùng ăn, cùng ở và cùng làm. Nhiều người sống hẳn với các dân tộc thiểu số. Cũng đóng khố. Cũng cà răng. Cũng ăn uống kham khổ. Cũng chịu đựng bao nhiêu thiếu thốn.
Vai trò của quần chúng thể hiện chủ yếu ở hai khía cạnh: thứ nhất, đóng góp ý kiến để giới lãnh đạo có được một sự lựa chọn sáng suốt và đúng đắn nhất; thứ hai, hậu thuẫn cho các quyết định của chính phủ để dưới mắt quốc tế, các sức mạnh ấy tăng thêm sức mạnh: đó là quyết định của toàn dân.
Mà không phải chỉ ở Việt Nam. Ở đâu cũng thế. Ở đâu giới lãnh đạo cũng cần sự đóng góp và hậu thuẫn của quần chúng. Bởi vậy, ở đâu cái gọi là lãnh đạo cũng cần đến hai yếu tố căn bản: khả năng hoạch định chính sách và khả năng thuyết phục, hay nói theo ngôn ngữ thương mại hoá ngày nay, là khả năng rao bán các chính sách ấy. Không có khả năng hoạch định chính sách, người ta chỉ là những nhà quản lý chứ không phải là người lãnh đạo. Không có khả năng rao bán chính sách, người ta, với tư cách lãnh đạo, chỉ có thể hoặc là độc tài hoặc là bất tài. Không có ngoại lệ.
Đảng Cộng sản, lúc chưa nắm quyền hoặc thời còn chiến tranh, từng chứng tỏ khả năng rao bán chính sách khá cao, từ chính sách xoá bỏ cách biệt giữa giàu và nghèo trong xã hội, chính sách đoàn kết dân tộc và thống nhất đất nước, v.v… Nhưng thời đó đã qua rồi. Từ tư cách những nhà cách mạng đến tư cách nhà cầm quyền, họ đánh mất khả năng rao bán chính sách và khả năng thuyết phục. Từ đó, hoặc họ chỉ biết ra lệnh hoặc họ quyết định mọi chuyện một cách lén lút. Họ không cần đến quần chúng nữa. “Để cho Đảng và nhà nước lo” là biểu hiện rõ nhất của sự bất cần ấy.
Sự bất cần ấy không những là biểu hiện của độc tài, độc đoán mà còn là nguyên nhân của những quyết định sai lầm từng dẫn đến bao nhiêu tai hoạ cho đất nước. Cải cách ruộng đất vào những năm 1950, cải tạo công thương nghiệp, chính sách giá-lương-tiền nửa sau thập niên 1970 và đầu 1980 là những ví dụ tiêu biểu nhất. Mới đây, cựu Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Dy Niên lên tiếng bày tỏ sự hối tiếc trước những sai lầm trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại thời sau 1975 khiến Việt Nam bị hụt mất bao nhiêu cơ hội may mắn và phải gánh chịu bao nhiêu bất hạnh không đáng có. http://trangridiculous.blogspot.com/2010/04/ong-nguyen-dy-nien-gia-ma-chung-ta-khon.html
Hiểu được điều đó, ông Nguyễn Dy Niên mới nhấn mạnh: “Cho nên phải dân chủ hơn nữa. Vì không có dân chủ thì không thể có trí tuệ. Phải cho người ta nói, nói hết, nhất là tầng lớp trí thức. Để cho trí thức có thể phản biện. Lắng nghe họ, và sau đó có sự điều chỉnh, chứ cứ ào ào nghe xong rồi lại thống nhất như nghị quyết thì thôi, đưa ra làm gì.” http://trangridiculous.blogspot.com/2010/04/30-4-ung-lam-nguoi-ta-au-them-nua.html
Trên thế giới hiện nay, không có đảng hay nhà nước nào có thể gánh vác mọi thứ được. Câu nói “Đồng bào đừng lo, hãy để đảng và nhà nước lo!”, bởi vậy, chỉ là một sự lừa dối. Đó là một sự khinh thường quần chúng.
Nhưng muốn quần chúng tham gia vào chính sự, cần có ít nhất hai điều kiện căn bản: sự minh bạch và quyền được phản biện. Có điều, chính quyền độc tài và tham nhũng nào cũng sợ cả hai điều đó. Toàn bộ sự nghiệp và tài sản của họ đều được xây dựng trên sự thiếu minh bạch của bộ máy nhà nước. Và toàn bộ hào quang về sự thông minh và uyên bác của họ đều được xây dựng trên cái quyền được làm người duy nhất có thể lên tiếng.
No comments:
Post a Comment