Bộ đội Trần Đức Thạch, ảnh chụp khoảng năm 1975-1976.
Tháng 04/1975, đơn vị chúng tôi (Sư đoàn 341 thường gọi là đoàn Sông
Lam A) phối hợp với Sư đoàn khác đánh vào căn cứ phòng ngự Xuân Lộc.
Trận chiến quyết liệt kéo dài 12 ngày đêm. Tiểu đoàn 8 chúng tôi do hành
quân bị lạc nên được giao nhiệm vụ chốt chặn. Nhằm không cho các đơn vị
quân lực Việt Nam cộng hoà tiếp viện cũng như rút lui. Phải công nhận
là sư đoàn 18 của phía đối phương họ đánh trả rất ngoan cường. Tôi tận
mắt chứng kiến hai người lính sư đoàn 18 đã trả lời gọi đầu hàng của
chúng tôi bằng những loạt súng AR15. Sau đó họ ôm nhau tự sát bằng một
quả lựu đạn đặt kẹp giữa hai người. Một tiếng nổ nhoáng lửa, xác họ tung
toé
giữa vườn cam sau ấp Bàu Cá. Hình ảnh bi hùng ấy đã gây ấn tượng
mạnh cho tôi. Tinh thần của người lính đích thực là vậy. Vị tướng nào có
những người lính như thế, dù bại trận cũng có quyền tự hào về họ. Họ đã
thể hiện khí phách của người trai nơi chiến trận. Giả thiết nếu phía
bên kia chiến thắng chắc chắn họ sẽ được truy tôn là những người anh
hùng lưu danh muôn thủa. Nhưng vận nước đã đi theo một hướng khác. Họ
đành phải chấp nhận tan vào cõi hư vô như hơn 50 thuỷ binh quân lực Việt
Nam Cộng Hoà bỏ mình ngoài biển để bảo vệ Hoàng Sa.
... Nghe tiếng súng nổ ran, tôi cắt rừng chạy đến nơi có tiếng súng. Đấy là ấp Tân Lập thuộc huyện Cao Su tỉnh Đồng Nai bây giờ. ấp nằm giữa cánh rừng cao su cổ thụ. Đạn súng đại liên của các anh bộ đội cụ Hồ vãi ra như mưa. Là phân đội trưởng trinh sát, tôi dễ dàng nhận ra tiếng nổ từng loại vũ khí bằng kỹ năng nghiệp vụ. Chuyện gì thế này? Tôi căng mắt quan sát. Địch đâu chẳng thấy, chỉ thấy những người dân lành bị bắn đổ vật xuống như ngả rạ. Máu trào lai láng, tiếng kêu khóc như ri. Lợi dụng vật che đỡ, tôi ngược làn đạn tiến gần tới ổ súng đang khạc lửa.
- Đừng bắn nữa! Tôi đây! Thạch trinh sát tiểu đoàn 8 đây!
Nghe tiếng tôi, họng súng khạc thêm mấy viên đạn nữa mới chịu ngừng.
Tôi quát:
- Địch đâu mà các ông bắn dữ thế? Tý nữa thì thịt cả mình.
Mâý ông lính trẻ tròn mắt nhìn tôi ngơ ngác. Họ trả lời tôi:
- Anh ơi! đây là lệnh.
- Lệnh gì mà lệnh, các ông mù à? Toàn dân lành đang chết chất đống kia kìa!
- Anh không biết đấy thôi. Cấp trên lệnh cho bọn em “giết lầm hơn bỏ sót”. Bọn em được phổ biến là dân ở đây ác ôn lắm!
-
Tôi mới từ đằng kia lại, không có địch đâu. Các ông không được bắn nữa
để tôi kiểm tra tình hình thế nào. Có gì tôi chịu trách nhiệm!
Thấy
tôi cương quyết, đám lính trẻ nghe theo. Tôi quay lại phía hàng trăm
người bị giết và bị thương. Họ chồng đống lên nhau máu me đầm đìa, máu
chảy thành suối. Một cụ già bị bắn nát bàn tay đang vật vã kêu lên đau
đớn. Tôi vực cụ vào bóng mát rồi dật cuốn băng cá nhân duy nhất bên mình
băng tạm cho cụ. Lát sau tôi quay lại thì cụ đã tắt thở vì máu ra quá
nhiều. Một chỗ thấy 5 người con gái và 5 người con trai bị bắn chết châu
đầu vào nhau. Tôi hỏi người lính trẻ đi theo bên cạnh:
- Ai bắn đấy?
- Đại đội phó Hường đấy anh ạ!
Lại nữa, tôi ngó vào cửa một gia đình, cả nhà đang ăn cơm, anh bộ đội cụ Hồ nào đó đã thả vào mâm một quả lựu đạn, cả nhà chết rã rượi trong cảnh cơm lộn máu. Tôi bị sóc thực sự. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ “Đi dân nhớ ở dân thương” mà thế này ư? Cứ bảo là Mỹ nguỵ ác ôn chứ hành động dã man này của chúng ta nên gọi là gì? Tâm trạng tôi lúc đó như có bão xoáy. Mặc dù vậy, tôi vẫn nhận ra ngay những việc cân làm. Tôi tập trung những người sống sót lại. Bảo chị em Phụ nữ và trẻ con ra rừng tổ chức ăn uống nghỉ tạm. Cốt là không cho mọi người chứng kiến lâu cảnh rùng rợn này. Đàn ông từ 18 đến 45 tuổi có nhiệm vụ ra sau ấp đào cho tôi một cái hố. Trong ấp ai có xe ô tô, xe lam, máy cày phải huy động hết để chở người bị thương đi viện. Mọi người đồng thanh:
- Xe thì có nhưng dọc đường sợ bị bộ đội giải phóng bắn lắm!
- Không lo, có tôi đi cùng!
Tôi giao cho Nghê, một du kích dẫn đường vừa có bố bị bộ đội cụ Hồ sát hại:
-
Việc lỡ như thế rồi, chú nén đau thương lại giúp anh. Thu hồi căn cước
tư trang của những người đã chết sau này còn có việc cần đến.
Thế
là suốt chiều hôm đó, tôi lấy một miếng vải đỏ cột lên cánh tay trái.
Lăm lăm khẩu AK ngồi trên chiếc xe dẫn đầu đoàn lần lượt chở hết người
bị thương ra bệnh viện Suối Tre. Tối hôm ấy, tôi cho chuyển hết xác
người bị chết ra cái hố đã đào. Không còn cách nào khác là phải chôn
chung. Trưa ngày hôm sau người ta mới dám lấp. Đây là ngôi mộ tập thể mà
trong hoàn cảnh ấy tôi buộc lòng phải xử lý như vậy. Trời nắng gắt, để
bà con phơi thây mãi không được. Một nấm mồ chung hàng trăm người lẫn
lộn, không hương khói, không gì hết. Tôi cho dọn vệ sinh sạch sẽ những
chỗ mọi người bị tàn sát. Xong, mới dám cho đám phụ nữ và trẻ con ở
ngoài rừng về. Tôi vượt mặt cả cấp
trên để làm việc theo tiếng gọi lương tâm của mình. Bằng mọi lỗ
lực có thể để cứu giúp đồng bào. Tưởng thế là tốt, sau này nghĩ lại mới
thầy hành động của mình giống như sự phi tang tội ác cho những anh bộ
đội cụ Hồ. Thú thật lúc ấy tôi vẫn còn một phần ngu tín. Cũng muốn bảo
vệ danh dự cho đội quân lính cụ Hồ luôn luôn được ca ngợi là tốt đẹp.
Tuy vậy tôi bắt đầu nghi ngờ “Tại sao người ta giết người la liệt rồi bỏ
mặc. Chẳng lẽ họ mất hết nhân tính rồi sao?”
Công việc xong tôi gặp
Nghê để chia buồn. Tôi không tránh khỏi cảm giác tội lỗi. Nghê đã đưa
xác bố về chôn tạm ở nhà bếp. Tội nghiệp Nghê quá. Lặn lội đi theo cách
mạng, ngày Nghê dẫn bộ đội về giải phóng ấp lại là ngày bộ đội cụ Hồ
giết chết bố Nghê. Nghê “mừng chưa kịp no” đã phải chịu thảm cảnh trớ
trêu đau đớn. Nghê buốn rầu nói với tôi:
Hôm qua nghe lời anh. Em thu
được hai nón đồng hồ, tư trang và căn cước của những người bị giết. Sau
đó có một anh bộ đội bảo đưa cho anh ấy quản lý. Em giao lại hết cho
anh ấy để lo việc chôn ba.
- Em bị thằng cha nào đó lừa rồi. Thôi
quên chuyện đó đi em ạ. Anh thành thật chia buồn với em. Chiến tranh
thường mang đến những điều không may tột cùng đau đớn mà chúng ta không
thể lường trước được. Anh cũng đang cảm thấy có lỗi trong chuyện này.
* * *
.... Đã mấy chục năm qua, khi hàng năm, khắp nơi tưng bừng kỷ niệm
chiến thắng 30/4 thì tôi lại bị ám ảnh nhớ về hàng trăm dân lành bị tàn
sát ở ấp Tân Lập. Cái hố chôn người bây giờ ra sao? Người ta sẽ xử lý nó
như thế nào hay để nguyên vậy? Tô
i muốn được quay lại đó để thắp nén hương nói lời tạ tội. Vô hình
dung việc làm tốt đẹp của tôi đã giúp cho người ta bưng bít tội ác.
Không! Người dân ấp Tân Lập sẽ khắc vào xương tuỷ câu chuyện này. Nỗi
đau đớn oan khiên lúc đấy chưa thể phải nhoà được. Còn những người tham
gia cuộc tàn sát ấy nữa, có lẽ họ cũng vô cùng dằn vặt khi nhận những
tấm huân chương do Đảng và Nhà nước trao tặng sau ngày chiến thắng. Ý
nghĩ ấy giúp tôi dũng cảm kể lại câu chuyện bi thương này.
Sau ngày
giải phòng Miền Nam 30/04/1975 tôi có chụp một kiểu ảnh đang cởi áo, lột
sao dang dở. Tôi đem tặng cho một thằng bạn đồng hương chí cốt. Hắn run
người, mặt tái mét:
- Tao không dám nhận đâu, họ phát hiện ra tấm ảnh này quy cho phản động là chết cả lũ!.
Bạn
tôi sợ là đúng. Vì cậu ta là Đảng viên. Nhưng điều bạn ấy không hiểu là
tôi làm vậy vì cảm thấy hổ thẹn và nhục nhã cho anh bộ đội cụ hồ khi
nghĩ tới vụ thảm sát ở ấp Tân Lập...
Trần Đức Thạch
Cựu phân đội trưởng trinh sát
Tiểu đoàn 8 - Trung đoàn 266
Sư đoàn 341 - Quân đoàn 4
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Trong lịch sử nhân loại, không có một chủ nghĩa nào tàn bạo hơn chủ nghĩa Cộng Sản. Từ khi Tuyên ngôn đảng cộng sản
ra đời năm 1848 cho đến khi bức tường Bá Linh bị đập đổ vào 1989,
khoảng gần 100 triệu người từ nhiều quốc gia đã bị giết. Hơn hai mươi
năm qua, mặc dù ngọn lửa vô thần đã tắt trên phần lớn quả địa cầu, một
góc trời phương đông lửa vẫn còn đỏ rực, nhà tù vẫn còn giam giữ nhiều
người bất đồng với chế độ độc tài toàn trị và tự do vẫn là một bóng mây
xa.
Hãy nói trước ngày chết
Người đời có thói quen kết án Stalin đã gây ra tội ác tày trời đối với
nhân dân Liên Xô, Mao Trạch Đông đã giết trên 30 triệu nhân dân Trung
Quốc và Pol Pot tiêu diệt một phần tư dân tộc Khmer bằng súng và cả bằng
dao phay, cán cuốc. Những chuyện đó ngày nay nhân loại đều biết và tội
ác của chúng không còn là vấn đề tranh cãi nữa. Tuy nhiên, làm thế nào
một nông dân có gốc gác bình thường, nếu không muốn nói là hiền lành như
Mao lại có thể trở thành sát nhân của mấy chục triệu dân Trung Quốc?
Làm thế nào Pol Pot, con của một điền chủ giàu có, được gởi sang Pháp ăn
học, được bạn bè nhớ lại như một người nhã nhặn, lịch sự và được gọi là
trí thức trong xã hội Khmer còn chậm tiến lúc bấy giờ, nhưng sau khi
nắm chính quyền đã giết hai triệu dân Khmer bằng búa, dao và những cách
giết người tàn bạo hơn cả trong thời Trung Cổ?
Bởi vì chủ nghĩa Cộng Sản trang bị cho chúng một quyền lực tuyệt đối,
một niềm tin cuối cùng, một lối thoát tinh thần, một chỗ dựa lý luận để
giải thích cho hành động bất nhân của chúng. Nuon Chea, người đứng hàng
thứ hai của chế độ Khờ Me Đỏ chỉ sau Pol Pot, lạnh lùng trả lời báo chí,
những kẻ bị giết chỉ vì “họ là kẻ thù của nhân dân”. Đơn giản vậy thôi.
Chúng ăn rất ngon và ngủ rất yên dù sau một ngày ký hàng loạt bản án tử
hình.
Giết một vài đối thủ thì không sao nhưng để loại bỏ hàng triệu người là
chuyện khác. Stalin không thể lên tận các trại lao động khổ sai ở
Siberia để bỏ đói những người chống đối y. Mao Trạch Đông không thể
xuống từng trường học để tra tấn các thầy cô trong Cách Mạng Văn Hóa, Hồ
Chí Minh không thể đích thân xử bắn bà Nguyễn Thị Năm trong Cải Cách
Ruộng Đất. Nhưng họ có khả năng huấn luyện, đầu độc một thế hệ đao phủ
thủ trẻ tuổi hăng say và cuồng tín để làm thay. Quyền lực đặt vào tay
đám đao thủ phủ trẻ này chẳng khác gì con dao bén để chúng thanh toán
những mối thù riêng và lập công dâng Đảng.
Tháng 10 năm 2002, nhà báo Mỹ Amanda Pike
đến Campuchia để tìm hiểu nguyên nhân tội ác diệt chủng của Pol Pot đã
không được làm sáng tỏ. Amanda Pike phỏng vấn bà Samrith Phum, người có
chồng bị Khờ Me Đỏ giết. Theo lời kể của bà Samrith Phum, vào nửa đêm
năm 1977 chồng bà bị một Khờ Me Đỏ địa phương bắt đi và giết chết vì bị
cho là “gián điệp CIA”. Hung thủ chẳng ai xa lạ mà là người cùng làng
với bà Samrith. Hiện nay, kẻ giết người vẫn còn sống nhởn nhơ chung một
làng với bà cách thủ đô Nam Vang vài dặm nhưng không một tòa án nào truy
tố hay kết án.
Với chủ trương “Dân tộc Khờ Me cần đào hố để chôn đi quá khứ” Hun Sen đã
cản trở Liên Hiệp Quốc rất nhiều trong việc điều tra tội diệt chủng của
chế độ Pol Pot. Hun Sen cản trở vì bản thân y cũng từng là một sĩ quan
Khờ Me Đỏ. Hun Sen nhiệt tình với lý tưởng CS đến mức bỏ học theo Pol
Pot khi còn trong tuổi thiếu niên. Nhiều chi tiết trong quảng thời gian
từ 1975 đến 1979 của cuộc đời y vẫn còn trong vòng bí mật. Khi chôn quá
khứ của Campuchia, Hun Sen muốn chôn đi quá khứ tội lỗi của mình.
Tình trạng kẻ sát nhân và gia đình những người bị sát hại vẫn còn sống
chung làng, chung xóm, chung thành phố không chỉ phổ biến tại Campuchia
nhưng cũng rất phổ biến tại Huế sau vụ Thảm sát Tết Mậu Thân 1968.
Số người bị giết trong vụ Thảm sát Tết Mậu Thân khác nhau tùy theo nguồn
điều tra nhưng phần lớn công nhận số người bị giết lên đến nhiều ngàn
người và “kẻ thù nhân dân” không chỉ là công chức chính quyền VNCH mà
còn rất đông sinh viên, học sinh, phụ nữ, trẻ em và ngay cả một số giáo
sư ngoại quốc. Ông Võ Văn Bằng, Nghị viên tỉnh Thừa Thiên và cũng là
Trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, kể lại: “Các
hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố,
người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào
lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại,
cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố
thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ
là do cuốc xẻng.”
Tài liệu liên quan đến Thảm sát Tết Mậu Thân rất nhiều, từ điều tra của
các nhà nghiên cứu nước ngoài cho đến các nhân chứng sống Việt Nam. Đến
nay, thành phần được nghĩ đã gây ra biến cố đầy tang thương cho dân tộc
Việt Nam này là những người Huế “nhảy núi”. Họ là những người bỏ trường,
bỏ làng xóm, bỏ cố đô lên rừng theo CS và Tết Mậu Thân đã trở lại tàn
sát chính đồng bào ruột thịt của mình. Họ là những kẻ vừa được giải
thoát khỏi nhà giam Thừa Phủ đưa lên núi huấn luyện vài ngày rồi trở lại
giết chết những kẻ bị nghi ngờ đã bỏ tù họ. Không giống quân đội chính
quy tấn công Huế, những du kích nằm vùng, những thanh niên, sinh viên,
học sinh là những người sinh ra và lớn lên ở Huế, thuộc từng tên phố tên
đường, biết tên biết tuổi từng người. Họ lập danh sách và đến từng nhà
lừa gạt người dân bằng cách “mời đi trình diện” rồi sẽ trả về nhà ăn
Tết. Những người nhẹ dạ đi theo. Mà cho dù không nhẹ dạ cũng chẳng ai
nghĩ mình sắp bị chôn sống chỉ vì làm chức liên gia trưởng của năm bảy
gia đình, ấp trưởng một ngôi làng nhỏ, xã trưởng của vài trăm dân. Kết
quả, từng nhóm, từng đoàn người lần lượt bị đem ra “tòa án nhân dân” và
kết án tử hình.
Người “nhảy núi” nổi tiếng nhất là Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Ngày 12 tháng 7 năm 1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời câu hỏi của nhà văn Thụy Khuê về sự liên quan của ông đối với vụ Thảm sát Tết Mậu Thân: “Sự
thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm
1966, và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là
trong thời điểm Mậu Thân 1968, tôi không có mặt ở Huế” và ông cũng thừa nhận Thảm sát Tết Mậu Thân là có thật chứ chẳng phải “Mỹ Ngụy” nào dàn dựng
“Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa
con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi
khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã
phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế
năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ
lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.
Khi được hỏi ai là những người phải chịu trách nhiệm, Hoàng Phủ Ngọc Tường phát biểu “Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” và tiếp tục nêu thêm chi tiết chính Đại tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân thừa nhận trong tạp chí Sông Hương
“Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh
đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của tôi.”
Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường trong buổi phỏng vấn dành cho nhà văn Thụy
Khuê xác nhận ông ta không có mặt ở Huế trong suốt thời gian Huế bị CS
chiếm đóng và những kẻ sát hại thường dân vô tội là do các “lãnh đạo
cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” chủ trương.
Tuy nhiên 15 năm trước đó, ngày 29 tháng 2 năm 1982, trong buổi phỏng vấn truyền hình
dài 15 phút dành cho hệ thống WGBH, Hoàng Phủ Ngọc Tường thừa nhận việc
dư luận đang tố cáo ông là đúng, nghĩa là chính ông đã có mặt tại Huế: “Tôi
đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn
lên thì toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút
ra...” và ông cho rằng một số người dân Huế chết thảm thương là do sự trả thù của chính người Huế với người Huế “chính
nhân dân đã căm thù quá lâu, đó là những người đã bị chính nó tra tấn,
chính nó đã làm cho tất cả gia đình phải bị đi ở tù ra ngoài đảo v.v...
và đến khi cách mạng bùng lên họ được như là lấy lại cái thế của người
mạnh thì họ đi tìm những kẻ đó để trừ như là trừ những con rắn độc mà từ
lâu nay nếu còn sống thì nó sẽ tiếp tục nó gây tội ác trong chiến
tranh.”
Nếu phân tích theo thời gian và diễn biến chính trị thế giới, đặc biệt
sự sụp đổ của phong trào CS quốc tế, câu trả lời của Hoàng Phủ Ngọc
Tường vào năm 1982 là thành thật và sát với thực tế Mậu Thân nhất. Trong
giai đoạn chuyên chính vô sản vài năm sau 1975, không chỉ ông ta mà cả
các lãnh đạo CSVN vẫn nghĩ “con đường tất yếu” là con đường “tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Không có một thế lực
nào cản trở sức chảy của “ba dòng thác cách mạng”. Vào thời điểm 1982,
Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng những không sợ gì phải che giấu mà còn xem đó
như một thành tích cần được nêu ra. Xem đoạn phim, khuôn mặt Hoàng Phủ
Ngọc Tường đằng đằng sát khí khi diễn tả việc giết một viên chức VNCH: “chỉ lấy lại mạng sống của một người, giá đó rất nhẹ và công bằng”.
Thái độ đó hoàn toàn khác với giọng ôn tồn khi ông ta nhắc lại lời của Đại tá CS Lê Minh như thay cho chính mình 15 năm sau “bây
giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách
minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong
sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ”. Thời
gian đổi thay, lịch sử đổi thay và con người cũng thay đổi. Không phải
chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường mà cả những cựu lãnh đạo CS Đông Âu, một thời
giết người không chút xót thương, sau 1990 cũng trả lời báo chí với
giọng ngọt ngào như thế.
Nhiều bạn hữu của Hoàng Phủ Ngọc Tường như tác giả Ngô Minh viết trên talawas 2008, cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường “trong
suốt những năm lên “xanh” ở A Lưới, Hoàng Phủ Ngọc Tường không được
phân công về thành phố hay đồng bằng một chuyến nào cả” mà không
biết hay cố tình bỏ qua sự kiện 26 năm trước chính Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã xác nhận mình ở Huế với những tình tiết mắt thấy tai nghe của một
người trong cuộc.
Hai buổi trả lời phỏng vấn hoàn toàn trái ngược chứng tỏ Hoàng Phủ Ngọc
Tường phải có một khó khăn để giải thích sự liên hệ của mình đến vụ Thảm
sát Mậu Thân. Lời phát biểu của ông cho thấy một điều, ngoại trừ trẻ em
quá nhỏ, những người bị giết chắc chắn biết người giết mình là ai.
Không giống Hoàng Phủ Ngọc Tường mâu thuẫn, hai ông Nguyễn Đắc Xuân và
Hoàng Phủ Ngọc Phan từ trên núi theo đoàn quân CS đánh vào Huế. Hai ông
không từ chối điều này nhưng đều phủ nhận đã có liên hệ gì với Thảm sát
Mậu Thân. Trong bài viết Nhân đọc bài "Trịnh Công Sơn - Những hoạt động
nằm vùng” Hoàng Phủ Ngọc Phan khẳng định: “Còn tôi thì có theo chiến
dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt
gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề làm thiệt mạng một con thú trên
rừng chứ đừng nói là con người.”
Nhà văn Nhã Ca kết án ông Nguyễn Đắc Xuân trong Giải Khăn Sô Cho Huế vì đã “đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố để xử tử” và ông Nguyễn Đắc Xuân đáp lại trong bài Hậu Quả Của “Cái Chết” của tôi: “Còn
tôi, một sinh viên Phật tử mới thoát ly chưa đầy một năm rưởi, không có
quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những việc như Nhã Ca viết thì cũng
không thể làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ý làm, làm sao tôi
có thể thoát được sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt là
những người sau nầy không còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa...”
Chuyện “thoát ly chưa đầy một năm rưỡi” không chứng minh được ông ta
không có quyền giết người, trái lại cũng có thể giải thích ngược, càng
tham gia trễ càng phải chứng tỏ nhiệt tình cách mạng cao độ, càng phải
giết nhiều người, càng phải lập nhiều công. Nói thế không phải để đánh
bồi thêm một người đã ngã nhưng cho thấy lời biện bạch của ông không
thuyết phục.
Trong tinh thần “Lợi ích của sự ngờ” (Benefit of the doubt), tạm cho
những lời người khác kể về các ông chưa đủ bằng chứng kết tội, tuy
nhiên, các ông Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân, những thành viên
tích cực của phong trào đấu tranh đô thị, hoạt động 26 ngày trong lòng
thành phố Huế bị rơi vào tay các ông với nhiều ngàn người dân vô tội bị
giết bằng những cách dã man hơn cả bọn diệt chủng Pol Pot mà các ông nói
rằng không biết gì, không thấy gì thì trẻ con ngây thơ cũng không tin
được.
Và không chỉ ba ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ
Ngọc Phan mà cả thế hệ “nhảy núi” ở Huế trong đó rất nhiều nhà nghiên
cứu văn hóa, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến nay vẫn không
biết gì, không thấy gì, không viết gì về Thảm sát Tết Mậu Thân thì quả
là chuyện lạ. Hãy thử đặt mình trong vị trí của gia đình các nạn nhân vụ
Thảm sát Huế, các ông có nghĩ rằng chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng
Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân đã giết hoặc biết chắc ai đã giết thân
nhân các ông các không? Chắc chắn là có, không thể có lời giải thích thứ
ba.
Lẽ ra Thảm sát Tết Mậu Thân phải là nguồn thôi thúc cho nhiều tác phẩm
văn học lớn nói lên sự đau khổ, sự chịu đựng tận cùng của đồng bào Huế
nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Lẽ ra những người đang bị dư
luận kết án, nếu thật sự không tham dự vào cuộc tàn sát, thay vì than
mây khóc gió trong văn chương hay lao đầu vào cơm áo, nên dành phần còn
lại của đời mình đi tìm cho ra cội nguồn gốc rễ để vừa giải oan cho đồng
bào mà cũng minh oan cho chính mình. Gia đình nạn nhân còn đó, nhân
chứng còn đó, hầm hố còn đó, bạn bè còn đó, chứng tích còn đó, chế độ
còn đó. Có thể người đọc vì sự công phẫn chưa nguôi, sẽ không tin hết
các điều các ông các bà viết nhưng nếu đúng rồi lịch sử sẽ tin. Nếu
không làm thế, cơ chế độc tài này chắc chắn sẽ tàn lụi nhưng tên tuổi
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị
Đoan Trinh v.v... mãi mãi vẫn là những dấu đen ngàn đời không phai.
Dư luận khắt khe nhưng không bất công. Suốt 42 năm, các ông các bà có
rất nhiều cơ hội để làm sáng tỏ một sự kiện lịch sử mà các ông các bà
từng tham dự, nhưng ngoại trừ việc phải trả lời vài buổi phỏng vấn rải
rác đó đây, các ông các bà im lặng. Kết án lại những người kết án không
phải là cách trả lời mà nhân dân Việt Nam đang muốn biết. Ông Nguyễn Đắc
Xuân được gọi là “nhà Huế học” nhưng Huế không chỉ có sông Hương, núi
Ngự, lăng tẩm, đền đài mà còn có Bãi Dâu, Khe Đá Mài, khu Gia Hội và
hàng chục ngôi mồ tập thể khác. Đời sống của một dân tộc không chỉ gồm
những thời đẹp đẽ, vinh quang mà còn cả những giai đoạn đau buồn, tủi
nhục. Tại sao các ông các bà không viết? Phải chăng những người “nhảy
núi” ở Huế cũng giống như Hun Sen hay tên Khờ Me Đỏ giết chồng bà
Samrith Phum năm 1977, đang cố chôn đi quá khứ? Sự im lặng của các ông
các bà không phải là một công án thiền mà là lời tự tố cáo lớn tiếng
nhất.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ suy vi và phân hóa nhưng sự
kiện một số người dã tâm tàn sát nhiều ngàn người Việt khác trong chỉ
vài tuần bằng các phương tiện phi nhân chưa từng có như ở Huế là lần
đầu. Vết thương Mậu Thân sẽ không bao giờ lành một khi tội ác chưa được
đưa ra ánh sáng. Nền tảng của hòa giải là công lý và sự thật chứ không
phải che đậy và lãng quên.
Nhiều tác giả đã viết về Thảm sát Mậu Thân. Những dữ kiện trong bài viết
này không có gì mới mà đã được nhắc đi nhắc lại. Dụng ý của kẻ viết bài
này chỉ muốn nhấn mạnh một điều rằng, nhiều trong số những người “nhảy
núi” còn sống ở Huế hay trong và cả ngoài nước, nhưng chắc không sống
bao lâu nữa. Tuổi tác của các ông các bà đều trên dưới bảy mươi. Thời
gian còn lại như tiếng chuông ngân đã quá dài. Tất cả sẽ là không. Các
ông các bà ra đi không mang theo gì cả nhưng sẽ để lại rất nhiều. Vẫn
biết con người khó tự kết án chính mình nhưng các ông, các bà vẫn còn nợ
dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ mai sau, câu trả lời cho cái chết
của nhiều ngàn dân Huế vô tội.
Ngọn nến trước khi tắt thường bật sáng, vì tương lai dân tộc, các ông các bà hãy sáng lên sự thật một lần trước ngày chết.
_____________________________________
Dân Làm Báo -
Họ tiếp tục hát trên những xác người, chối bỏ tội ác, đổ thừa tội phạm,
chà đạp lịch sử để tự vinh danh những kẻ sát nhân lẫn một chế độ sát
nhân. Và vì thế những tang thương quá khứ đành phải lật lại vì sự thật
của lịch sử:
No comments:
Post a Comment