Sunday, September 19, 2010

Tác phẩm “Thăng Long Xưa Hà Nội Nay” của nhà văn Trần Nhu.




Lời nhà xuất bản
Việc xuất bản tác phẩm “Thăng Long Xưa Hà Nội Nay” của nhà văn Trần Nhu vào thời điểm này mang một ý nghĩa vô cùng trọng đại nhân dịp kỷ niệm Thăng Long – Hà Nội 1000 tuổi. Trong bối cảnh đất nước đang diễn ra thảm kịch về một chế độ Bắc thuộc trá hình, tàn bạo, phi nhân, phi dân tộc. Tác phẩm này ra đời như gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh và khơi dậy những thao thức của hàng triệu con tim Việt Nam. Ðồng thời nhắc nhở chúng ta những bài học thấm thía về đạo lý, đức tin, tự chủ, tự lực, tự cường của ông cha chúng ta đã bẻ gẫy tất cả các cuộc xâm lăng của nước Trung Hoa khổng lồ, mà không có một quốc gia lân bang nào phải chịu nhiều cuộc xâm lăng từ phía Trung Hoa như Việt Nam. Cũng không có giống người nào khoan dung, độ lượng với kẻ thù như người Việt Nam: “Quân Nguyên Mông sang xâm chiếm nước ta 3 lần, lần thứ nhất (1257), lần thứ hai (1285), lần thứ ba (1288) đi đến đâu chúng cũng tàn phá, giết chóc hủy diệt dã man, khai quật cả mồ vua Trần Thái Tông (Chiêu Lăng). Khi giặc thua, hầu hết các tướng soái như Tích Lệ Cơ, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Ðường Ðột Ngãi, Mai Thế Anh, Xầm Ðoan, A Thái, Diêm Nguyên Soái v.v... cùng sáu vạn quân Nguyên bị bắt đều được vua ta khoan hồng, cấp lương thực phương tiện cho về nước. Ðến quân nhà Minh sang cướp nước ta năm 1410 – 1413 thì sự tàn bạo và dã man còn vượt xa quân Nguyên. Thế mà khi chúng thua, Vua ta còn hạ lệnh cho quân dân tỉnh Bắc Giang, Lạng Giang sửa cầu đắp đường, lại hạ lệnh cho lộ quân thủy: chuẩn bị thuyền bè, buồm chèo lương thực đưa quân Tầu về nước. Tất cả các tướng lãnh nhà Minh bị bắt đều được thả.”
Tiền nhân chúng ta nhiều thế kỷ trước đã thường xuyên phải đối đầu với chủ nghĩa bành trướng phương Bắc trong các cuộc xâm lăng. Những hiểm nguy mà chúng ta khó lòng tưởng tượng nổi.
Thăng Long trải qua bao nhiêu lần binh lửa, với những trận đánh lừng danh để bảo vệ kinh thành. Tác giả sẽ đưa bạn đọc vào cuộc sống giữa những biến cố vô cùng trọng đại của dân tộc trong nhiều thế kỷ trước làm sống dậy hiện thân trong mỗi con người Việt Nam như được hít thở không khí ở Hội Nghị Diên Hồng trong cuộc chống xâm lăng nhà Nguyên, hoặc theo vua Quang Trung trong chiến dịch đại phá quân Thanh ở gò Ðống Ða. “Ðành rằng chúng ta không sao gỡ hẳn được ảnh hưởng của ý tưởng bây giờ theo thước đo của thế kỷ 21, nhưng chỉ riêng ai biết cố gắng gạt bỏ những chướng ngại của đời sống hiện tại và quá khứ trong vòng tự do của con người Việt Nam muôn đời.” Ðó là lời tác giả viết trong bộ Tinh Thần Phật Giáo Nhập Thế. Dẫu thế nào, đọc tác phẩm này bạn sẽ bị cuốn hút bởi những chữ tác giả dùng đều mới mẻ và sống động đến kỳ lạ. Tựa như công trình dệt gấm từ ngữ, với những sợi tơ muôn mầu muôn sắc... Ðất nước, dân tộc, Ðại Việt như một tấm thảm đẹp lạ lùng. Những triều đại rực rỡ, những biểu tượng huy hoàng đạt đến điểm cao của tinh hoa nhân loại dù thời gian đã trải qua 1000 năm, song Thăng Long vẫn hàm chứa tính phổ biến văn hóa sâu xa của dân tộc. Bởi nó được rút ra từ một pho sử vĩ đại...
Nó toát lên được thần khí các nhân vật lịch sử những chân dung anh hùng dân tộc tuyệt vời. Nhưng không phải kiểu dựng chân dung như tiểu thuyết, hoặc đúc tượng thánh, hoặc cố tình “gọt giũa” hay thổi phồng các nhân vật mà là những sự thật lịch sử.
Ðây là một công trình làm việc có ý nghĩa. Một tác phẩm xứng tầm thời đại, có nhiều đột phá mới mẻ và nhiều vấn đề nóng bỏng được đặt ra.
Với tinh thần sử học, nhãn quan rộng mở kết hợp nghệ thuật diễn tả. Nhà văn còn cho ta thấy diện mạo, dấu tích Thăng Long với những nét đặc trưng văn hóa văn minh truyền thống của Thủ Ðô. Ngược dòng thời gian người đọc còn có dịp nhìn lại quá khứ sâu thẳm của giống nòi để nhận được từ đây nguồn năng lượng và ý chí bất khuất dẻo dai của dân tộc có sau lưng mấy ngàn năm lịch sử oai hùng, để động viên khích lệ thế hệ trẻ, củng cố hy vọng cho một Việt Nam tự do, trong mỗi bước tiếp... lúc bối rối, khi phải đối mặt với hiện tại nghiệt ngã, nhiễu nhương mà mỗi người Việt Nam, đều sở hữu một mãnh lực bởi các hoạt động ái quốc đầy mưu lược của tiền nhân.
Tác giả đã đi sâu vào các nẻo đường lịch sử của cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, thu thập các chứng liệu để cống hiến cho chúng ta bằng tất cả tấm lòng yêu thương quê hương nồng nàn và dụng công gắng sức gạn lọc cái tinh hoa ngàn đời góp cái thơm mát cho thế hệ trẻ, nó là sự kết tinh những giá trị trí tuệ, những phẩm chất tâm hồn là những bảo vật vô giá thiêng liêng ngàn đời không thể thay đổi, còn triều đại nào rồi cũng suy vong, sụp đổ, đền đài đồ sộ, cung điện mỹ lệ, nguy nga nào rồi cũng điêu tàn. Cái vĩnh hằng trường tồn là những kiến trúc tinh thần:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Dịch
Sông núi nước Nam quyền vua Nam
Hiển nhiên thiên định hẳn không lầm
Lý Thường Kiệt
Hoặc:
Xã tắc ngưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
Dịch
Xã tắc hai phen bom ngựa đá
Non sông ngàn thuở vững âu vàng
Vua Trần Nhân Tông
Hay
Thiên vạn cổ hà sơn tại
Dịch
Trời Nam ngàn năm núi sông vẫn còn
Vua Lê Thánh Tông
Ðó chính là nguồn sức mạnh trường tồn của dân tộc ta đồng thời là động lực to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tinh thần đó là tinh thần siêng năng, cần cù, lương thiện trong xây dựng. Can đảm, dũng cảm trong chiến trận mỗi khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam, thì dòng máu ái quốc trong mọi tầng lớp nhân dân lại sôi sục.
“Uống nước nhớ nguồn” “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Là người Việt Nam chúng ta ai chẳng biết xúc động cảm hoài nhớ ơn các bậc tiền bối anh hùng liệt vị đã đổ bao nhiêu mồ hôi nước mắt và xương máu để thành tựu nên sự nghiệp non sông gấm vóc. Và càng nên thực hiện cụ thể, báo ân quốc gia dân tộc.
Giác Lượng Tuệ Ðàm Tử

-------------------------------------------------

Lời phi lộ.

Thăng Long-Đông Đô-rồi Đông Quan-Đông Kinh đến Hà Nội nay đúng 1.000 năm. Kể từ khi vua Lý Thái Tổ quyết định chọn nơi đây làm Kinh Đô, đã trải qua nhiều thăng trầm, biến thiên...
Nửa thế kỷ qua, Thăng Long – Hà Nội có nhiều người viết về nhiều chuyên đề: Lịch sử, khảo cổ, thắng cảnh, diện mạo, văn hóa, nghệ thuật v.v... Cuốn sách này viết theo một quy hướng khác. Ðó là những chủ nhân đã tạo dựng lên tất cả các sắc thái của Thăng Long, cùng với những chiến tích lịch sử trải dài suốt ngàn năm là một thực thể vô cùng lớn lao thuộc tâm linh, tôn giáo, văn hóa, nếp sống, chính trị cấu thành một mạng lưới các hỗ tương từ cá nhân xuất sinh ý niệm nhất thể về một tự kỷ, bản lãnh Việt, chúng biểu thị tính đồng nhất, tương quan liên quan đến toàn thể giống nòi.
Người viết đặt nặng trên các điểm tựa sự thật lịch sử để khai thác những gì ẩn hiện, tiềm tàng như một sự kiện tâm linh tôn giáo, chính trị, đạo lý, văn hóa mà mỗi đất nước, dân tộc đều có một nền văn hóa riêng. Nó là sự kết tinh những giá trị trí tuệ, đạo đức, những phẩm chất tâm hồn, những thành quả làm nên các thần trí bản sắc, hồn tính dân tộc là những mục tiêu mà tác giả hướng tới, công việc hết sức khó khăn, nhưng cũng hết sức hứng thú, hy vọng đạt được phần nào.
Biết rằng toàn cảnh quá khứ, cận đại và đương đại là công việc quá to tát mà khả năng có hạn, thời gian thì mong manh! Mong rằng đây chỉ là một vài nét phác họa chân dung con người Việt Nam qua những sự kiện lịch sử với cách suy nghĩ, cách hành động, cách ứng xử của tiền nhân ta...
Ý nghĩa ở đây là trực giác về một cái gì thần kỳ thiêng liêng nhiệm mầu, và một thứ nhân bản cao tột đầy ắp tình người, thánh thiện hiện rõ trong những gương mặt rực sáng trí tuệ, chúng ta có thể thấy cách tin tưởng trong các cuộc chiến tranh vệ quốc cũng như trong xây dựng hòa bình. Suốt chiều dài lịch sử đan chéo và đối nghịch với bản sắc Trung Hoa, từ Vua chúa đến thần dân sẽ ý thức được sự hơn hẳn của dân tộc ta, cùng với nền văn minh Ðại Việt, bay cao tỏa sáng mọi góc độ (nếu không sẽ không tồn tại, hoặc sẽ bị Hán hóa như những dân tộc khác...) Nơi đây được coi như phần hồn của tác phẩm, nhưng chỉ cô đọng trong một số chương Thăng Long Con Người và Lịch Sử... Thăng Long trải qua bao nhiêu lần binh lửa , Bốn ngàn năm chống văn hóa nô dịch. Sau đó là những chương nói về cảnh và người Hà Nội Nay. Cũng xin minh định rằng, tác giả không làm công việc của người viết sử cận đại Việt Nam. Nhưng bình luận, khảo sát, đối chiếu về một số nhân vật chủ chốt có ảnh hưởng đến vận nước như Hồ chí Minh. Ðó là đối tượng đầu tiên ném lên bàn cân, bởi ông ta cuốn hút các đảng viên cộng sản đi sau. Giống như sợi dây chuyền vô sản xuyên qua mọi tình tiết liên kết chúng lại thành một chuỗi tai họa từ nhân vật đó giông bão bùng nổ, rồi thảm kịch này nối tiếp thảm kịch kia, thảm kịch sau lồng vào thảm kịch trước!
Viết về đời tư ông ta, ngôn ngữ giành cho lãnh tụ không được “xinh xắn” cho lắm. Cũng không bóng bảy, càng chẳng phải là chất thơ. Do vậy chỉ coi là suy luận của một người hoạt động văn chương, suy đoán theo logic tâm lý. Cách ứng xử của nhân vật theo hoàn cảnh chi phối bởi quy luật, lúc mà trí sáng tạo của nhà văn được thỏa sức tung hoành không sợ bị ai kết tội là phản động... chứ không có ý xuyên tạc. Tuy nhiên, khi ghi chép các sự kiện tác giả hết sức tránh những điều không đủ tin, vô lý lệch lạc, tìm những tài liệu đáng tin cậy nhất, và lý giải, phân tích khoa học các sự kiện... được coi như khái niệm then chốt, vì vậy phần này là một nỗ lực tiếp cận với sự thực.
Sau chót xin đa tạ tất cả tấm lòng vàng đã góp công sức vào cuốn sách này, trước hết là HT Thích Giác Lượng, Cư sĩ Lê Văn Trúc, Minh Bùi, Trần Lợi, Nguyễn Ðình Hương, Gs. Nguyễn Văn Vượng, Gs. Nguyễn Văn Trung, Gs. Nguyễn Văn Canh, Ts. Nguyễn Hồng Dũng, Ts. Lê Ðình Cai... đặc biệt là các vị bô lão như cụ Trương Đình Sửu một nhân sĩ của Hà Nội xưa và cụ Nguyễn Hữu Hãn nguyên phụ trách báo chí và thanh niên, nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã hết sức nhiệt tình bỏ nhiều thì giờ đọc tác phẩm, sửa chữa những lỗi lầm về văn phạm, cân nhắc các từ ngữ xử dụng làm sáng tỏ những câu văn tối nghĩa. Những đóng góp về văn hóa là vô giá, ân nghĩa sâu dầy.
Tác giả cũng xin trân trọng tri ân tất cả bằng hữu chân tình đã đọc, sửa chữa và khuyến cáo những điều hữu ích cho tác phẩm được hoàn thành một cách trang trọng như hôm nay. Cuối cùng chúng tôi không quên cảm ơn những tác giả của những tác phẩm mà chúng tôi đã trích dẫn.
Trân trọng,

TRẦN NHU
--------------------------------------------------------------

Mời quý vị độc giả bấm vào đây để xem chương 1 tác phẩm “Thăng Long Xưa Hà Nội Nay”

Chúng tôi sẽ đăng lần lượt các chương tiếp theo và các chương này sẽ được đưa vào trong thanh menu mang tên “Thăng Long Xưa Hà Nội Nay”: (thanh menu ở dưới logo Việt Vùng Vịnh ở góc trái trên)
--------------------------------------------------------------

Thăng Long Xưa Hà Nội Nay

CHƯƠNG I
Thăng Long Con Người và Lịch Sử
* Thăng Long thời Lý
* Thăng Long thời Trần
* Đông Đô và Đông Quan
* Thăng Long thời Nguyễn đổi thành Hà Nội
* Hà Nội thời Hồ

Lịch sử Thăng Long bắt nguồn từ thời kỳ những bản anh hùng ca... cách nay 1000 năm, nơi đây diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, được ghi trong các bộ sử của Việt Nam: Xây dựng Văn Miếu (1070), mở Quốc Tử Giám (1067); xây dựng Bí Thư Các đầu tiên (1087); Thành lập Quốc Sử Viện (1272) đời nhà Trần, Hàn Lâm viện đời Lê... gần 1000 năm Thăng Long Hà Nội là Thủ đô, nơi có truyền thống văn hiến dân tộc lâu đời.
Kinh thành này vang bóng một thời quá khứ, nơi đây có rất nhiều điểm gợi nhớ khác nhau: một hồ Hoàn Kiếm, một Tháp Rùa*, Chùa Một Cột, Gò Ðống Ða mồ chôn quân xâm lược Trung Quốc...
Về sự tích Hồ Gươm, câu chuyện vua Lê sau khi đánh thắng giặc Tầu đã hoàn trả thanh Bảo Kiếm cho Thần Rùa trên hồ Lục Thủy giữa kinh thành Thăng Long. Từ đó hồ mang tên Hoàn Kiếm (hồ Trả Gươm hay hồ Gươm).
(*Về truyền thuyết Thần Rùa (Thần Kim Quy) đã hai lần xuất hiện. Lần đầu tiên vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên đã cho An Dương Vương mượn hai linh khí để đánh giặc, giữ nước. Ðó là thanh Bảo Kiếm Tinh Trắng xây thành Cổ Loa và chiếc móng của mình để làm Nỏ Thần, đánh quân xâm lược Triệu Ðà lần thứ hai là sứ giả của Ðức Long Quân xuất hiện trên Hồ Lục Thủy để nhận lại thanh Bảo Kiếm mà vua Lê trao trả sau khi đánh đuổi giặc ngoại xâm lấy lại giang sơn gấm vóc cho quốc gia Ðại Việt.)
Lòng nhân không có biên giới, không có giới hạn không gian và thời gian. Tổng thống Hoa Kỳ George Washington năm 1776 tuyên bố câu nổi tiếng: “Gươm đao là giải pháp cuối cùng để bảo vệ sự tự do của chúng ta, vì thế phải là vật đầu tiên cần phải dỡ bỏ khi sự tự do ấy đã được thiết lập vững vàng”.
Chúng ta có thể tự hào nói rằng: Không ở đâu trên mặt quả địa cầu này có giống người mà lòng nhân từ, độ lượng khoan dung như người Việt Nam. Quân Nguyên Mông sang xâm chiếm nước ta 3 lần, lần thứ nhất (1257), lần thứ hai (1285), lần thứ ba (1288) đi đến đâu chúng cũng tàn phá, giết chóc hủy diệt dã man, khai quật cả mồ vua Trần Thái Tông (Chiêu Lăng). Khi giặc thua, hầu hết các tướng soái như Tích Lệ Cơ, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Ðường Ðột Ngãi, Mai Thế Anh, Xầm Ðoan, A Thái, Diêm Nguyên Soái v.v... cùng sáu vạn quân Nguyên bị bắt đều được vua ta khoan hồng, cấp lương thực phương tiện cho về nước. Ðến quân nhà Minh sang cướp nước ta năm 1410 – 1413 thì sự tàn bạo và dã man còn vượt xa quân Nguyên. Thế mà khi chúng thua, Vua ta còn hạ lệnh cho quân dân tỉnh Bắc Giang, Lạng Giang sửa cầu đắp đường, lại hạ lệnh cho lộ quân thủy: chuẩn bị thuyền bè, buồm chèo lương thực đưa quân Tầu về nước. Tất cả các tướng lãnh nhà Minh bị bắt đều được thả.
Những thời kỳ vàng son với những chiến thắng lẫy lừng như vậy do các vương triều hùng mạnh, đứng đầu bởi các vị hoàng đế anh minh sáng suốt. Lại thiết tha chiêu lập hiền tài bằng mọi biện pháp: Thi cử, tiến cử, phát hiện và xử lý, thưởng phạt nghiêm minh rõ ràng, không định kiến thiên vị... cùng với tinh thần phục vụ dân tộc vô điều kiện. Có lẽ vì thế các ngài đã tập hợp được lực lượng hùng hậu, làm nên bao chiến công huy hoàng, đánh thắng những quân đội thiện chiến rất hung dữ nhất thế giới thời đó làm cho quân thù cũng phải nể sợ.
Con Rùa
Con Rùa

Người cha đẻ của Thăng Long
Nhà Lý định đô ở Thăng Long năm 1010. Vua Lý Thái Tổ tuyên bố rõ lòng quả quyết: “Nhân dân Việt Nam xây dựng một quốc gia Đại Việt độc lập, với ý chí sắt đá bất chấp tất cả bọn xâm lược phương Bắc”. Việc dời đô về Thăng Long, Vua thấy đất Hoa Lư ẩm thấp, chật hẹp, không thể mở mang làm nơi đô hội trung tâm chính trị, văn hóa và kinh tế được, bèn dời đô ra thành Ðại La, Hà Nội bây giờ. Ðây là thành cũ của Cao Biền, hình thể núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa.
Trong Chiếu thiên đô Vua nói: “Thành Đại La ở chính giữa thiên hạ, là nơi trung tâm của bốn phương. Nhân vật phồn thịnh! Xem khắp nước Việt đó là thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.”
Trong sách “Vân Đài Loại Ngữ” Lê Quí Đôn nhận xét: “Kinh đô đặt ở Long biên giữa khoảng hai phủ Thường Tín và Quốc Oai. Phía Tây bắc chiếm dọc theo núi. Phía đông nam có sông to ngăn trở, thật là một nơi đô hội đủ cả về đường thủy và đường bộ. Phía tây thì có những phủ Lâm Thao, Ðoan Hùng, Ðà Dương và hai xứ Tuyên Quang, Hưng Hóa.
Phía chính bắc là một xứ Thái Nguyên sản xuất ngọc, đá quý, vàng, bạc, đồng, thiếc, chì, sắt, tre, gỗ, củi than, cung cấp đủ nhu cầu cho công và tư, lại có trà, thóc, giấy, dầu, mè, cam, quít, các sản vật thổ nghi như khoai, đậu, củ mài, lúa, bắp, dưới nước có nhiều cá, ba ba, cua đinh…
Phía tây có phủ Ứng Thiên, Quảng Oai. Phía Bắc có phủ Thuận an, Từ sơn.
Phía đông có hai phủ Hồng (Thượng Hồng và Hạ Hồng) và Sách (Nam Sách) đồng ruộng mầu mỡ.
Phía Nam có những phủ Tiên Hưng, Khoái Châu, Lý Nhân, Thiên Trường, Kiên Xương, Thái Bình, Nghĩa Hưng, rất thích nghi với lúa chiêm, đất đai mầu mỡ hàng ngàn dặm, ruộng bằng muôn khoảnh, một năm hai mùa, mỗi mẫu thu lợi được hơn hai trăm quan. Nhân dân ở bờ biển no đủ về cá, gạo, muối, đời sống tốt đẹp, lại có mối lợi về cói lác, trai sò tốt và ngon, đó là chưa kể vào món thuế ao đầm, sông rạch. Ở phía đông Kinh Môn Phủ và lộ An Quảng lại nhiều cá muối, cây gỗ, châu ngọc đồi mồi, là nơi thuyền biển tụ tập, hàng hóa ngoại quốc lưu thông ở các cửa quan và chợ búa được tiện lợi đủ thay thế cho thuế má.
Ở phía tây bắc có phủ Lạng Giang và xứ Lạng Sơn có nhiều lò nung đất, ruộng đất cũng phong phú.
Phía tây nam có hai trấn to là Thanh Hóa, Nghệ An sản xuất những loại cây to như gỗ lim, gỗ sến, gỗ táu, quế, trầm hương, đàn hương, cau, sừng tây, da tây, sừng voi, da voi, vàng bạc, đồng sắt v.v…
Phía tây Nghệ An ăn thông với các nước Bồn Man, Lão Qua, Cao Miên, trâu bò được chuyển đến bán cho ta.
Kinh đô Thăng Long “Lại quay mặt ra biển và qua những trấn Hải Dương, An Quảng ở phía Đông Nam, có trấn Nghệ An, lại ở phía tây nam, phía tả biển cả ở trấn An Quảng là Khâm Châu. Ở phía Khâm Châu, một khu đất chênh vênh ở giữa biển là Quảng Nhai. Phía tả núi Hoàng Sơn ở trấn Nghệ An là Thuận Hóa. Ở phía hữu Thuận Hóa, Quảng Nam là nước Chiêm Thành.
Căn cứ vào đây thì Thuận Hóa, Quảng Nam và Chiêm Thành là quá cung làm con hổ viễn án. Còn Hải Nam là một minh đường, nghĩa là: chỗ nước chung tụ ở trước huyệt lộ theo phong thủy lớn ở phía ngoài quốc độ, mạch lạc, hùng vĩ, xa rộng, hình thể bao la đáng là vương kinh thiên phủ.
Ở vào thế “rồng cuốn, hổ ngồi” chính giữa Nam, Bắc, Đông, Tây, Thăng Long đã hội đủ mọi tinh hoa của đất nước đương thời.
Chính vì vậy Thăng Long đã trở thành trung tâm của Châu Thổ Sông Hồng và của nước Đại Việt.
Thăng Long chiếm một vị trí đặc biệt trong lịch sử phát triển nền văn minh văn hóa dân tộc, ảnh hưởng của nó bao trùm đối với sự phát triển mọi mặt. Đồng thời kinh đô Thăng Long còn là kho điển tích, là nguồn cung cấp đề tài và tư liệu lịch sử không bao giờ cạn: thơ văn, anh hùng, trong vườn hoa văn hóa muôn sắc muôn mầu ấy. Thăng Long như một chiếc nôi của nền văn hiến Việt Nam, nó tiêu biểu cho sức sống dân tộc và hình như có sự giao cảm giữa con người và cảnh vật.
Thủ đô xưa nay vẫn là trung tâm của đời sống sinh hoạt văn hóa, tinh thần của mỗi quốc gia.
Thăng Long không phải là kinh đô đẹp nhất trần gian mà người ta được thấy, Thăng Long cũng không phải là đô thành cổ nhất thế giới nhưng nó đã ra đời trước hàng trăm kinh đô khác trên thế giới.
Về hình thể cũng như đặc điểm, thủ đô Thăng Long của Việt Nam không hề giống bất kỳ một đô thành nào trên thế giới. Thoáng nhìn bên ngoài, xét về mặt lịch sử văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc... Thăng Long không có những lâu đài, cung điện, tráng lệ, đồ sộ, không có những tòa nhà to lớn hùng vĩ, không có những cố cung hoành tráng rực rỡ. Nó cũng thiếu những cảnh u-nhã độc đáo...
Khác với văn hóa Trung Hoa, văn minh Đại Việt không có truyền thống xây dựng cung điện lộng lẫy đồ sộ, và lăng mộ vĩ đại như Trung Hoa. Không phải là vì người Việt Nam không có tài năng. Nên biết rằng các kiến trúc tổng thể của cố cung rất hùng vĩ, hào hoa tráng lệ, là tinh hoa của nghệ thuật kiến trúc cổ đại Trung Hoa. Trong thành tựu độc đáo tuyệt vời xuất sắc của công trình này, lại do một kiến trúc sư người Việt Nam. Đó là Nguyễn An, một nhân vật sống vào thế kỷ thứ XV mà sách sử Việt Nam rất ít nhắc đến. Nhưng trong các sách Trung Hoa ngay vào đời nhà Minh và đời nhà Thanh sau này đã hết lời ca ngợi Nguyễn An là một Tổng Công Trình Sự tài ba. Đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng thành Bắc Kinh.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Việt Kiệu Thư, vào những năm đầu tiên niên hiệu Vĩnh Lạc đời nhà Minh, sau khi đã chiếm Việt Nam, viên tướng Trương Phụ, một mặt tìm mọi cách hủy diệt văn hóa Việt Nam, như thiêu đốt kinh sách, đập phá đền chùa, chuông, đem một số lớn tư liệu, sách vở của Việt Nam về nước, mặt khác lại tiến hành việc lựa chọn, bắt đem về nước nhiều mỹ nữ, trẻ em cùng các thợ tinh xảo đưa về Kinh Lăng (nay là Nam Kinh). Sau này nhà Minh đã tập trung nhiều nhân lực trong đó có một số thợ Việt Nam (khi đó gọi là Giao Chỉ) đưa lên Bắc Kinh để xây dựng cố cung. Theo sử Trung Hoa ghi chép: “Đời nhà Minh có hai người Giao Chỉ cùng tên là Nguyễn An. Một là người thợ sau làm quan tới chức Phó Sư Văn Tư Uyển (Minh Hiến Tông Thực Lục) tr: 257. Tới đời Thanh năm thứ 20 (1484) ông vẫn còn sống. Một người khác là Thái giám Nguyễn An. Đây chính là vị Tổng Công Trình Sự xây dựng cố cung đời vua Minh Thánh Tổ. Trong các sách Minh Tông, Anh Tông, chính thức thực lục quyển 54. Minh sử, Minh thư đều có ghi chép về Nguyễn An như sau:
Nguyễn An người Giao Chỉ, tính tình liêm khiết, mẫn thiệp, nhiều tài năng, rất giỏi trong việc kiến trúc, xây dựng. Trước khi Minh Thánh Tổ di chuyển thủ đô từ Nam Kinh lên Bắc Kinh vào năm Vĩnh Lạc thứ 19 – 1421, theo lệnh của Minh Thánh Tổ, Nguyễn An khi đó ước khoảng 30 tuổi, đã thiết kế toàn bộ cung thất, điện đài, thành hào, cửa môn, lưỡng cung, tam địa, ngũ phủ, lục bộ cùng các công thự của bách quan trong cố cung. Nguyễn An đã trực tiếp ước lượng tính toán và lên kế hoạch xây dựng. Các cơ quan trực thuộc của Bộ công chỉ có việc thực hiện mà thôi.
Nguyễn An từ trần trên đường đi trị thủy sông Trương Thu, để lại bao nỗi niềm kính phục mến cảm tài năng của ông với người Trung Hoa... Nhiều công trình ông xây dựng còn tồn tại đến ngày nay như điện Thái Hòa, Trung Hòa, Bảo Hòa v.v… Các học giả Trung Hoa ngày nay đã hết lời ca ngợi Nguyễn An là một vị kiến trúc sư tài ba của Việt Nam, có người đã từng viết: “Nhân dân Bắc Kinh phải biết ơn và kỷ niệm Nguyễn An, quan thái giám người Việt Nam đời Minh.”
Để soi rọi bằng các ống kính nhận thức theo khía cạnh mà ta thấy sự thực của nền văn minh vật chất Trung Hoa là gì? Tôi lại xin dẫn ra đây một vài chi tiết của việc xây dựng Tử Cấm Thành của triều nhà Minh, ở đây tôi không thể nói tất cả các công trình mà chỉ có thể nói sơ lược một vài công việc họ xử dụng nhân công vận chuyển gỗ để bạn đọc tự mình hình dung máu xương của người dân Trung Hoa đã đổ vào đó như thế nào?
Minh Thánh Tổ định đô ở Bắc Kinh, trải qua quá trình xây dựng, hoàng đế cai trị triều đại Tử Cấm Thành chuẩn bị xây dựng vào năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Lạc của Minh Thánh Tổ. Chính thức xây dựng từ Vĩnh Lạc 15, Vĩnh Lạc 18. Thiết kế công trình, quan thái giám Nguyễn An, phụ trách công trình xây dựng Tử Cấm Thành là hầu tước Trần Khuê, người chỉ đạo thực hiện quy hoạch là Ngô Trung. Công việc xây dựng Tử Cấm Thành là một công trình khổng lồ vô cùng phức tạp. Chỉ riêng chuẩn bị cũng đã mất mười năm, cung thành của Tử Cấm Thành chủ yếu dựng bằng gỗ, phần lớn từ các tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Triết Giang, Tứ Xuyên núi sâu rừng thẳm, gỗ được chuyển ra từ Trường Giang, qua các sông ngòi lớn như Gia Lăng Giang, rồi từ sông Trung Giang chuyển ra sông đào lớn Đại Vân Hà, qua sông Huệ, từ Trường Gia cảng ở sông Thông Châu tới Sùng Văn Muôn của Bắc Kinh, cuối cùng được chuyển tới Thần Mộc Sương. Gỗ Hà Bắc qua Hán Thủy tới Trường Giang, Hồ Nam qua Tượng Giang tới Trường Giang, Giang Tây qua Cống Giang tới Trường Giang. Dân phu đẵn gỗ đi vào rừng sâu vô cùng gian khổ, thường vào núi một nghìn người ra núi chỉ còn năm trăm. Một số lớn đã bỏ xác nơi rừng sâu! Gỗ phải qua thân xác máu xương của cả triệu dân phu mới được chuyển tiếp về kinh đô.
Ngoài gỗ ra, việc xây dựng cung điện còn đòi hỏi một khối lượng đá, bột đỏ, gạch trong, ngói lưu ly. Đá trong cung điện Tử Cấm Thành chủ yếu là đá xanh, đá trắng, ngói diệp thanh, đá bạch ngọc. Những loại đá này khai thác từ khắp miền đất nước Trung Hoa, lượng gạch ngói dùng trong cung điện Tử Cấm Thành cũng rất lớn và vô cùng cầu kỳ, ngói lưu ly vàng hầu như phủ kín cả cung thành, dưới ánh nắng mặt trời lấp lánh sang trọng lộng lẫy, nó ngang bằng một sông máu núi xương của dân Tàu!
Việc vận chuyển bằng thuyền to với hàng ngàn thủy thủ phải đào sông, bắc cầu, di dân, dời nhà ròng rã hàng năm trời mới chuyển được về Kinh, chưa kể đến nhân công xây dựng còn nặng nề khổ công gấp trăm lần.
Việc xây dựng cung điện và lăng mộ của các Hoàng Đế Trung Hoa. Sử sách đã ghi chép khá đầy đủ, lăng mộ Tần Thủy Hoàng, được xếp vào loại lớn nhất thế giới.
Sau khi thống nhất thiên hạ, Tần Thủy Hoàng đã bắt hàng triệu nhân công xây lăng mộ, đến ngày ông ta băng hà, công trình vẫn chưa xong. Nhị thế cho làm tiếp hai năm nữa mới xong, trước sau gần 40 năm, không biết bao nhiêu là xương máu của dân Tàu đã đổ vào đây để nó trở thành kỳ quan của thế giới. Làm cho dân Trung Hoa ngày nay, có thể hãnh diện về ông cha của họ.
Nhưng đối với những người làm sử, tách rời đời sống xã hội để xem xét văn minh Trung Hoa, là chỉ mới thấy cái xác của vấn đề… Cách tiếp cận là đi vào đời sống xã hội đương thời, lấy sự thật làm chuẩn mực xem xét văn minh, văn hóa, hiểu cả các thần thức động cơ của nền văn hóa, văn minh mà thiếu cái nhìn quán xuyến, mọi mặt, có thể làm mất đi một phần cấu trúc tổng thể hữu cơ tạo nên cái nền văn minh đó.
Theo cách nhìn nhận mới, khi nghiên cứu lịch sử, người ta đều đặt nó trong một tổng thể hệ thống. Khoa học hiện đại gọi là sự tiếp cận hệ thống, được áp dụng ở phương Tây từ nửa sau thế kỷ XX.
Trước đây, các hoàng đế Trung Hoa thường coi các dân tộc khác là man di, mọi rợ và nhiều người Trung Hoa thường có thái độ dị chủng, đem cái tiêu chuẩn riêng của văn minh, văn hóa dân tộc họ để đánh giá các nền văn hóa khác. Và coi những khác biệt của các nền văn hóa khác là sự thấp kém.
Ông cha ta đã phá vỡ vòng vây trói ấy rằng không phải chỉ có một nền văn minh mà có nhiều nền văn minh. Văn minh Việt Nam không cần xếp theo một trật tự tôn ty nhất định nào cả.
Việt Nam không có cái thứ văn minh dùng xương máu của dân để xây lên những cung điện, đền đài nguy nga vĩ đại. Vua Lý Nhân Tông lúc sắp lâm chung còn gọi quần thần vào cung di chiếu: “Trẫm nhắm mắt, việc tang chế trong ba ngày phải bỏ áo chở, thôi hẳn xót thương, việc chôn cất cứ theo lối tằn tiện không nên xây lăng mộ riêng.”
Chết rồi còn lo lắng cho quốc gia dân tộc, cảm thông với dân, thật chứa chan tình người qua lời căn dặn lại thần dân của Ngài.
Kể từ khi mang danh xưng nước Đại Việt, văn hóa, phong tục, lễ giáo, tư tưởng Việt đã khiến văn minh Trung Hoa không thể có gì so sánh nổi. Các Hoàng đế Việt Nam có nếp sống bình dị, nhất là các vua nhà Trần. Ðại sư Huyền Quang sống với Thượng Hoàng Trần Nhân Tông ở Yên Tử đã cho ta thấy cuộc sống hàng ngày của Hương Vân Ðại Ðầu Ðà như thế nào!\
Mặc cà sa, nằm trướng giấy
Màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương
Quên ngọc thực, bỏ hương giao
Cạp nạnh cà một vò, tương một hũ.
Thật là một cuộc sống giản dị đến mức độ không ai có thể ngờ tới của một vị đại anh hùng, vừa chiến thắng oanh liệt kẻ thù, vừa là một vị hoàng đế đầy quyền uy, lại có thể sống một đời đạm bạc đến như vậy.
Tư tưởng trong sáng cao đẹp lạ thường trước mọi khoa trương của Trung Hoa, để đúc kết thành cái thị hiếu mỹ thuật và quan niệm văn minh riêng, tách rời khỏi ảnh hưởng của các triều đại Trung Hoa.
Vấn đề xây dựng Hoàng Cung
Một chế độ đang trên đà đi lên, đã mang trên đầu cái vòng hào quang của nhiều chiến công lừng lẫy mà bước đến tột đỉnh vinh quang của nó, như triều Lý, triều Trần. Thế tất cũng có thể xây dựng được một nền văn minh tinh thần, vật chất tương xứng với tầm vóc của mình. Nhưng vì thương dân nên không chú ý đến di sản vật chất.
Bộc lộ rõ nhất là Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông khi còn ở ngôi báu, sử ghi: “Vua xuống chiếu rằng việc xây dựng cung thất cốt sao giản dị, mộc mạc, chỉ lấy các tản quan trong tôn thất phục dịch không được phiền đến dân”.1
“Đây là vị Hoàng đế với chiếu chỉ độc nhất trong lịch sử nhân loại. Ôi! Vĩ đại làm sao! Nguyên việc vua nhà Lý khi băng hà di chúc lại cho thần dân không được xây lăng. Vua nhà Trần khi sống xuống chiếu không được lấy dân xây dựng cung điện. Nhân bản văn minh đến thế là tột cùng của nhân loại. Và đây cũng là lý do tại sao Việt Nam không có những đền đài nguy nga, những cung điện đồ sộ, xuất hiện một cách chói chang ở những thời kỳ hưng thịnh nhất của đất nước. Bởi vì nghệ thuật khổng lồ vẫn đi đôi với chế độ nô lệ, cung điện càng nhiều, nô lệ càng đông, thì số phận người dân càng hẩm hiu đau khổ. Cả nước phải xây dựng cung điện cho nhà vua. Người Trung Hoa có thể tự hào bởi những cung điện lộng lẫy của các triều đại nước Tàu, nhưng sử gia hẳn phải biết rằng bao nhiêu xương máu, mồ hôi của dân nước họ đã phải đổ vào đó”. 2
------------------------------------------------------------- 
1 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư Tập II Tr 240 Nhà XB Văn Hóa Thông Tín Hà Nội 2000.2 Dẫn Sách “Tinh Thần Phật Giáo Nhập Thế” Tập I trang 597, cùng tác giả.

No comments:

Post a Comment