Thursday, March 11, 2010

SỰ THẬT SẼ GIẢI PHÓNG CÁC CON

Lời Hằng Sống

 SỰ THẬT SẼ GIẢI PHÓNG CÁC CON
(Găng  8, 31 – 47)
David Richir

Giăng 8:31-42


Chúa Giê-xu nói về sự giải thoát khỏi tội lỗi
 31 Chúa Giê-xu bảo những người Do-thái đã tin Ngài rằng, “Nếu các ngươi trung thành với lời dạy của ta thì các ngươi sẽ là môn đệ thật của ta. 32 Các ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát các ngươi.”   33 Họ đáp, “Chúng tôi là con cháu Áp-ra-ham [a], chưa hề làm tôi mọi ai. Tại sao thầy lại nói chúng tôi sẽ được giải thoát?”    34 Chúa Giê-xu đáp, “Ta bảo thật, ai phạm tội là tôi mọi của tội lỗi. 35 Kẻ tôi mọi không sống mãn đời với gia đình nhưng con cái thì suốt đời thuộc về gia đình. 36 Cho nên nếu Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ thật được tự do. 37 Ta biết các ngươi là con cháu Áp-ra-ham. Nhưng các ngươi tìm cách giết ta, vì các ngươi không chấp nhận lời dạy của ta. 38 Ta nói điều ta đã thấy nơi Cha, còn các ngươi làm điều cha các ngươi dặn bảo.”
 39 Họ đáp, “Cha chúng tôi là Áp-ra-ham.”       Chúa Giê-xu bảo, “Nếu các ngươi thật là con cháu Áp-ra-ham thì cũng sẽ làm như chính Áp-ra-ham đã làm. 40 Ta là người nói cho các ngươi biết sự thật mà ta đã nghe từ Thượng Đế, nhưng các ngươi tìm cách giết ta. Áp-ra-ham không hề làm như thế bao giờ!  41 Các ngươi làm giống như điều cha mình đã làm.”
   Họ đáp, “Chúng tôi đâu có phải là con hoang. Thượng Đế là Cha chúng tôi. Chúng tôi chỉ có một Cha mà thôi.”    42 Chúa Giê-xu bảo họ, “Nếu Thượng Đế là Cha thật của các ngươi thì các ngươi sẽ yêu ta vì ta đến từ Thượng Đế và hiện nay ta đang có mặt tại đây. Ta không lấy quyền mình mà đến, nhưng Thượng Đế đã sai ta đến. 

penance2Chúng ta đang ở vào khoảng năm 30 của kỷ nguyên chúng ta ở Giêrusalem. Bây giờ trời vào thu và như mỗi năm, tất cả các tín đồ có khả năng, đã lên đường tiến về Giêrusalem để mừng mùa gặt, hân hoan trước Thiên Chúa trong vòng một tuần lễ với việc ở trong lều trại. Những tấm bạt nầy được trải ra nhắc nhở  chuỗi ngày cha ông ở trong sa mạc, việc họ được giải phóng khỏi Ai Cập và vào Đất Hứa. Đây là lễ tự do và những hoa trái của sự tự do nầy.

Trong Đền Thờ, ở trung tâm lễ mừng,Chúa Giêsu đưa ra những tuyên bố gây ngạc nhiên :”Nếu ai khát, hãy đến với Ta và hãy uống!” (Ga 7,37), ”Ta là ánh sáng thế gian” (Ga 8,12) và với việc nhắc lại mạc khải Danh Thánh Thiên Chúa cho Môsê (Xh 3,14) :”Nếu các ngươi không tin rằng Ta, Ta Hằng Hữu, thì các ngươi sẽ chết trong tội lỗi các ngươi” (8,24). Trước những lời khẳng định nầy về thiên tính của Người, rất nhiều chống đối dấy lên…nhưng trái với mọi mong đợi, Thánh Gioan nói với chúng ta rằng “nhiều người đã tin” (Ga 8,30).

Chính với những kẻ tin nầy mà Chúa Giêsu sẽ dạy dỗ về sự tự do (8,31-47) và hiệu quả mạnh mẽ của thông điệp nầy sẽ dẫn những “kẻ tin” nầy cầm lấy những viên đá để ném đá Đấng mà họ đã in vào (8,59). Làm sao lại sinh ra cớ sự ấy? Đây là lời Chúa Giêsu châm lửa vào thuốc súng : “nếu các ngươi ở trong lời Ta, thì các người đúng thật là môn đệ Ta; nếu các ngươi biết sự thật, thì sự thật sẽ giải phóng các ngươi (8,31-32).

TỰ DO HAY LÀ NÔ LỆ?
Chúa Giêsu hứa ban tự do cho các môn đệ : tin thật tốt lành! Vấn đề nằm ở trong từ ngữ Người sử dụng để mô tả sự giải phóng nầy.: đó là từ chỉ về sự giải phóng nô lệ. Như vậy Chúa Giêsu hiểu ngầm rằng những kẻ nghe Người, dù là những người Do Thái có niềm tin, không tự do, nhưng là nô lệ.

Lập tức có phản ứng :”Chúng tôi là hậu duệ của Abraham vá chúng tôi chưa hề nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông có thể nói : các ngươi sẽ được tự do?” (8,33). Thật buồn cười : những người Do Thái nầy quên mất quá khứ làm nô lệ ở Ai Cập, trong khi họ lại đang mừng lễ ngày họ được Thiên Chúa giải phóng! Nhưng chúng ta chẳng cũng giống như họ sao! Chúng ta cũng không dễ gì nghe nói rằng chúng ta cần được giải phóng.

Vào thời Chúa Giêsu, nô lệ chiếm gần một phần ba dân số đế quốc La Mã. Họ không có bất cứ quyền gì, để kết hôn hoặc quyền trên con cái : họ hoàn toàn dưới sự thống trị của chủ họ. Người ta hiểu được hơn sự khó khăn của một người tư do bị đem so sánh với một nô lệ.

Ngày nay vẫn vậy, chế độ nô lệ là một thực tại. Hãy nghĩ đến Henriette Akota, cô gái người Togo mà người ta làm cho loá mắt vì Tây phương rồi sau đó trở thành gia nhân nô lệ ở Pháp! Hay là Nadia, sinh viên Đại học ở Moldavia, bị bắt cóc, bị bán, bị hiếp và bị ép buộc làm gái bán dâm. Hai người phụ nữ nầy đã có thể được giải phóng, nhưng còn biết bao phụ nữ khác còn làm nô lệ? Người ta ước tính con số những phụ nữ nầy vào khoảng 27 triệu, ngày nay còn nhiều hơn bất cứ thời nào trong lịch sử loài người. Việc buôn bán người mang lại 31 tỷ USD mỗi năm. Chỉ riêng Thụy-Sĩ có khoảng 1.500 đến 3.000 người làm nô lệ cho những mục đich bóc lột tình dục. Những con số nầy quả là kinh khủng. Những thảm kịch mà các con số nầy hé lộ con hãi hùng biết bao.

Nhưng làm sao Chúa Giêsu lại có thể dùng một thực tại nặng nề cay đắng như vậy để đem áp dụng vào đời sống thiêng liêng? Phải chăng đó là một lời phỉ báng đối với những ai đang chịu đau khổ về kiếp nô lệ trong xác thịt họ?

NÔ LỆ CHO TỘI LỖI
xuctro1Nếu Chúa Giêsu tự cho phép mình có sự so sánh nầy giữa thực tại kinh khủng của chế độ nô lệ và tình trạng tinh thần của chúng ta, đó là vì tình huống mà chúng ta đã ở trong đó quả thực bi đát. Quả thật, mọi chế độ nô lệ con người có nguồn gốc là một chế độ nô lệ còn nghiêm trọng hơn : nô lệ cho tội lỗi! Sâu xa hơn, phổ biến hơn, với những hậu quả đáng sợ hơn, tình trạng nô lệ nầy chế ngự mọi con người để cho mình dính vào bẩy tội lỗi : “ Tất cả những ai phạm tội, là làm nô lệ cho tội lỗi” ( 8,34).

Nếu những người nghe Chúa Giêsu phản ứng mạnh mẽ như thế trước những lời khẳng định nầy, là vì họ bị đụng vào trong sự kiêu ngạo là người “tự do” : họ không thể nào công nhận mình lại là nô lệ! Nhưng chúng ta chẳng phải cũng như vậy hay sao? Trước tội lỗi và cám dỗ của tội, biết bao lần chúng ta tự ru ngủ với ảo tưởng sẽ tự thoát ra được một mình và tìm được tự do nhờ chính sức  mạnh ý chí của chúng ta. Trong thế giới ảo tưởng nầy, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải có một cái nhìn sáng suốt về tình trạng của chúng ta : nếu chúng ta phạm tội, chúng ta bước trệch ra ngoài con đường Chúa Giêsu đã vạch ra cho chúng ta vá chúng ta trở thành nô lệ cho tội lỗi. Tội lỗi trở thành ông chủ của chúng ta. Y giam hãm chúng ta và ngăn không cho chúng ta ước muốn những gì là tốt lành và thiện hảo. Dần dà, người nô lệ nên giống như chủ nó, đến chỗ trở thành một ‘đứa con của ma qủy “,(8,44).

MỘT QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ TỰ DO
samhoi3Điều thúc đẩy chúng ta tới chỗ cho rằng có thể xoay xở được một mình, đó chính là một quan niệm sai lầm về sự tự do. Chúng ta cứ nghĩ rằng tự do tức là muồn kàm gì cũng được, không lệ thuộc ai trong các chọn lựa và trong cuộc sống. Thực tế lại khác xa! Tất cả chúng ta là những hữu thể lệ thuộc, vì Thiên Chúa dựng nên chúng ta như thế : chúng ta là những hữu thể có tương quan, những gì mà chúng ta lệ thuộc, in dấu vào trong chúng ta, thay đổi, đặt nền móng cho chúng ta. Sự tự do, do vậy, không phải là không lệ thuộc vao cái gì – hoàn toàn ảo tưởng vì chúng ta chẳng thể nào sống sót – nhưng tự do hệ ở chọn ai mà chúng ta muốn lệ thuộc vào.
Sự chọn lựa những sự lệ thuộc tích cực (Thiên Chúa, bạn bè Kitô hữu, những điều tốt lành theo Pl 4,8,v.v..) có thể làm nẩy sinh trong chúng ta nhiều tự do hơn. Nhưng lựa chọn những sự lệ thuộc tiêu cực (tội lỗi, bạn xấu, ma túy, dâm ô, mê tín dị đoan,v…v..) sẽ làm giảm tự do của chúng ta và làm tăng tình trạng nô lệ của chúng ta.
Chúa Giêsu đề nghị chúng ta lệ thuộc vào Người, vì chỉ duy một mình Người có thể đem cho chúng ta tự do đích thật. Mọi chọn lựa bên ngoài Người và thánh ý Người đồng nghĩa với đánh mất tự do và bị làm nô lệ.

TRỞ NÊN MÔN ĐỆ
xuctroNên tự do, trước hết là không nô lệ cho tội lỗi, quay lưng ngoảnh mặt lại với tội để không còn sa phạm nữa và thực thi thánh ý Chúa bằng việc trở nên môn đệ Chúa Giêsu. Đó là điều Chúa Giêsu khẳng định :”nếu các ngươi ở trong lời Ta, thì các người đúng thật là môn đệ Ta; nếu các ngươi biết sự thật, thì sự tjhật sẽ giải phóng các ngươi (8,31-32). Ở đây Chúa Giêsu mô tả chân dung của người tự do với việc gọi người đó là môn đệ. Nhưng Chúa muốn nói điều gỉ?
Trong Phúc Âm theo Thánh Gioan, Chúa Giêsu chỉ dùng ba lần từ môn đệ:
-          Ga 8,31 : mônn đệ là người ở trong lời của Chúa Giêsu
-          Ga 13,35 : người có tình yêu thương đối với các môn đệ khác
-          Ga 15,8 : người mang nhiều hoa trái cho Chúa. Nên môn đệ, do vậy còn hơn cả một lời tuyên xưng đức tin đơn thuần, một sự gắn bó trí tuệ trung thành với nội dung Phúc Âm. Môn đệ là người có một đức tin sống động, một đức tin đưọc nuôi dưỡng bằng lời của Chúa Giêsu và mang hoa trái trong Giáo Hội và cho bên ngoài.
-          Lới mà môn đệ được kêu gọi ở bên trong, không gì khác hơn là mạc khải trái tim Chúa hoá thành nhục thể (Ga 1,14.18). Người môn đệ vì thế được mời gọi đi theo vết chân Thầy mình trên con đường tháng ý Chúa dẫn đến Chúa Cha.

SỰ TỰ DO CỦA NGƯỜI CON
Khi bước theo bước chân Chúa Giêsu trên con đường thánh ý Chúa, sự hiểu biết chân lý tăng lên, và tự do cũng tăng như vậy. Bởi vì sự giải phóng khỏi tội lỗi trong cuộc đời Kitô hữu của chúng ta không phải một sự trừu tượng trí tuệ đơn giản, với mnhững hiệu ứng tự phát. Nếu công lý Chúa được thủ đắc cho chúng ta một lần thay cho tất cả, thì sự giải phóng khỏi tội lỗi dàn trải theo thời gian : đó lá con đường thánh hoá.
Nhưng chân lý giải phóng nầy là chân lý nào? Chúng ta đang nói về giáo lý nào vậy? Chúng ta phải tuyên xưng chân lý nào để có được sự giải phóng ấy?
Sự thật giải phóng không phải là một phát biểu tín lý, một khẳng định trừu tượng. Đó là một hành vi cụ thể mà chính Chúa Giêsu đã hoàn thành. Người nói về nó như sau :”Nếu Người Con giải phóng anh em, thì anh em sẽ thật sự tự do” (Ga 8,36). Chúng ta không thể tự minh giải phóng mình khỏi tội lỗi, mà chúng ta đang là tù nhân của nó : chúng ta cần đền một người giải phóng mang chân lý đến cho chúng ta. Trước hết là sự thật về chính chúng ta : ý thức về tình trạng nô lệ tội lỗi của chúng ta. Kế đến là sự thật về công bình và về lý lịch của Đấng giải phóng . Đó là điều Chúa Giêsu giải thích :” Khi nào các người nâng Con Người lên [trên thập giá], bấy giờ các người sẽ nhận ra rằng Ta, Ta là Đấng Hằng Hữu” (Ga 8,26). Đó chỉ có Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng Hằng Hữu, Đấng ban sự sống trên thập giá làm giá chuộc tự do cho chúng ta, mới có thể giải phóng chúng ta.

SỰ THẬT SẼ GIẢI PHÓNG CÁC CON
Dù chúng ta có hài lòng hay không, thì Chúa Giêsu vẫn nói chúng ta nô lệ tội lỗi! Nhưng không dừng lại ở đó, Người đề nghị với chúng ta một con đường tự do: Lời Người! Người nào ở trong Lời Chúa, se biết được sự thật. Và sự thật sẽ giải phóng người ấy khỏi tội lỗi.
Để ở trong con đường nầy, đề làm môn đệ Chúa Giêsu, tin Chúa Giêsu chưa đủ. Vì trở nên môn đệ Chúa không đơn giản là tuyên xứng đức tin, như lời tuyên xưng của những người Do Thái “đã tin” vào Chúa Giêsu (Ga 8,30) Trở nên môn đệ Chúa Giêsu, đó là một đời sống đức tin, khởi đầu bằng ước ao được Người giải phóng. Đó là tự biết mình là nô lệ, bị tội lỗi trói chặt, và tìm tự do nơi duy nhất Chúa Giêsu và công trình Người ở thập giá. Đó là, khi đã được giải phóng khỏi tình trạng nô lệ cho tội lỗi, bước đi miệt mài trong sự tự do nầy trong Chúa Giêsu-Kitô, “là Đường – là Sự Thật và là Sự Sống”.

BTGH chuyển ngữ

 Các ngươi sẽ biết SỰ THẬT, và SỰ THẬT sẽ giải thoát các ngươi
 (Giăng 8: 32 - Bản dịch PT)
***


- Chúa Jesus từng bị người đương thời “gài bẩy” để làm hại, chỉ vì Ngài công bố SỰ THẬT và rao giảng LẼ THẬT!

Vậy, mấy người ấy đến, thưa Ngài rằng: Lạy thầy, chúng tôi biết thầy là người thật, không sợ gì ai; vì thầy không xem bề ngoài người ta, nhưng dạy ĐẠO Đức Chúa Trời theo mọi LẼ THẬT. Có nên nộp thuế cho Sê-sa hay không? Chúng tôi phải nộp hay là không nộp? ” (Mác 12: 14)

- Con Đức Chúa Trời là Đấng luôn đầy ƠN và LẼ THẬT. (Giăng 1: 14)

- Muốn được ƠN, chúng ta phải biết sống với LẼ THẬT và luôn nói ra SỰ THẬT. Vì SỰ THẬT và LẼ THẬT sẽ giải phóng chúng ta khỏi sự cầm buột của tội lỗi và điều ác!

Các ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát các ngươi” (Giăng 8: 32 - Bản dịch PT)

- Trong Đức Chúa Jesus chỉ có ƠN và LẼ THẬT!

Vì luật pháp đã ban cho bởi Môi-se, còn ƠN và LẼ THẬT bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà đến.” (Giăng 1: 17)

- Đức Chúa Trời ưa thích những người thờ phượng Ngài bằng LẼ THẬT. (Giăng 4: 23)

- Người ta lập mưu giết Chúa Jesus chỉ vì Ngài công bố SỰ THẬT và rao giảng LẼ THẬT!

… Các ngươi tìm mưu giết ta, là người lấy LẼ THẬT đã nghe nơi Đức Chúa Trời mà nói với các ngươi!...” (Giăng 8: 40)

- Sự thật và lẽ thật sẽ làm sụp đổ vương quốc của Sa-tan!

 ***

Ma quỷ là kẻ không BỀN GIỮ LẼ THẬT:

Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ, mà sanh ra; và các ngươi muốn làm nên sự ưa muốn của cha mình. Vừa lúc ban đầu nó đã là kẻ giết người, chẳng bền giữ được lẽ thật, vì không có lẽ thật trong nó đâu. Khi nó nói dối, thì nói theo tánh riêng mình, vì nó vốn là kẻ nói dối và là cha sự nói dối.” (Giăng 8: 44)

Ma quỷ biết lẽ thật ngay từ đầu, nhưng nó không BỀN GIỮ LẼ THẬT!

Một số người khi khởi đầu “hầu việc Chúa” thì họ bước đi và làm theo lẽ thật, nhưng sau đó thì họ KHÔNG BỀN GIỮ VÀ BƯỚC ĐI TRONG LẼ THẬT. (Họ đã bắt chước ma quỷ?)

Có một thực tại đáng lo ngại là ngày hôm nay, “linh” của sự DỐI TRÁ đã len lỏi và làm chủ trong hầu hết những nhà lãnh đạo trong các giáo hội Tin lành. Họ NÓI DỐI một cách SIÊU ĐẲNG và TINH VI! Họ NÓI DỐI bằng VĂN BẢN, có HỆ THỐNG và TỔ CHỨC. Chức vụ càng cao thì nói dối càng nhiều. Họ đem cả Lời Chúa ra để làm “công cụ hổ trợ” cho sự nói dối của họ!

Vị sợ “gây vấp phạm cho người khác” nên nhiều người đã im lặng, hoặc bao che, hoặc đồng lõa với sự nói dối! Và vì thế các “giáo hội” đã trở nên “Thiên đường của sự nói dối”. Vì ở đó người ta nói dối mà không sợ phanh phui, vì ai “phanh phui” sẽ bị kết án là “đụng đến người xức dầu”… những kẻ nói dối thì được DANH – LỢI – QUYỀN mà không ai được phép phản đối… thì có gì để cản người ta không nói dối?

Rất nhiều “giáo hội” tồn tại ở VN ngày nay, là “sản phẩm của sự nói dối”. Nó sinh ra và tồn tại nhờ sự nói dối, vì các “ông chủ”, "sáng lập viên" của những giáo hội đó, vốn là những “bậc thầy của sự nói dối”! Những giáo hội đó là “vương quôc”, là “thiên đường của sự nói dối”!…

“Tổng thống Reagan là vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên trên thế giới đã nói ra sự thật trần trụi rằng Liên Xô là đế quốc Ác. Như nhà văn Anh Geogre Orwell từng nói trong thời dối trá phổ quát (rằng) nói ra sự thật là một hành động cách mạng. Tổng thống Reagan bằng can đảm của mình đã nói ra một sự thật mà từ đấy đưa đến sự sụp đổ của các chế độ toàn trị...” (trích nguồn: http://www.reagan.utexas.edu/archives/speeches/1983/30883b.htm)

Nói ra SỰ THẬT và công bố LẼ THẬT là để giải phóng Hội thánh và con cái Chúa ra khỏi những “vương quốc của sự dối trá”. Họ bị nô dịch trong những vương quốc ấy, mà cứ tưởng là mình “hầu việc Đức Chúa Trời”. Họ bị những “ông vua” trong những vương quốc ấy dẫn dụ và mê hoặc. Những “ông vua” trong những vương quốc ấy được khoác “hoàng bào NÓI DỐI”… Họ được quyền “bất khả xâm phạm” khi NÓI DỐI!

Huỳnh Thúc Khải
Loihangsong 20/9/2011



 
Description: http://www.nhom-yksb5.net/images/article_image/tskt_ktst/tran-manh-hao-vnn-305.jpg
Nhà văn Trần Mạnh Hảo
Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước

(Tham luận của Trần Mạnh Hảo trong Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VIII, soạn theo thư “mời viết tham luận” của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhờ nhà thơ Trần Đăng Khoa đọc giùm – cám ơn!) ........
Trần Mạnh Hảo
 
“Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” K. Marx
Kính thưa quý đồng nghiệp cầm bút,
Thưa quý vị quan khách và quý vị lãnh đạo,
Thói thường, con người sợ món gì nhất? Sợ ma quỷ ư? Không! Sợ vợ ư? Không! Sợ công an ư? Không! Sợ kẻ cầm quyền ư? Không! Sợ chết ư? Không!
Theo chúng tôi, con người trên mặt đất này sợ nhất sự thật! Vì vậy, ngạn ngữ Việt Nam từng nói: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Người Trung Hoa từ thượng cổ đã nói: “Trung ngôn nghịch nhĩ”. Người Ba Tư cổ khuyên: “Nếu nói ra sự thật, anh sẽ chết”. Người Ai Cập xưa cảnh cáo: “Khi sự thật bị bỏ quên quá lâu, một hôm nó thức dậy thành ngày tận thế”. Ngạn ngữ Tây Tạng tiền Phật giáo khuyên: “Mày chỉ được phép nói ra sự thật, nếu mày làm vua”. Thổ dân Úc bảo: “Ai nhìn thẳng vào sự thật sẽ bị mù mắt”. Lịch sử nhân loại đã ghi nhận hàng triệu con người từng dám cả gan nói lên sự thật mà bị mất mạng, bị tù tội hay bị quản thúc tại gia.
Đã có bao nhiêu lý thuyết chính trị thề bồi giải phóng con người, bao nhiêu cuộc lật đổ, cuộc cách mạng tuyên thệ giải phóng con người, giúp con người hoàn toàn tự do, sau khi đã giết hàng triệu triệu sinh mạng. Rút cuộc, con người hình như vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng, chưa hoàn toàn được tự do, con người vẫn còn sợ hãi vì bị sự dối trá thống trị? Một số đất nước, một số dân tộc trên hành tinh vẫn còn bị nhốt trong nhà ngục có tên là dối trá. Cần phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù kia.
Chìa khóa cuối cùng giúp con người được giải phóng, được hoàn toàn tự do, chính là sự thật, một sự thật không còn bị giấu như loài mèo giấu của quý. Karl Marx đã tôn vinh sự thật lên tột cùng của nhận thức luận và phương pháp luận: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”: không có sự thật đi kèm, mọi kết luận, mọi lý thuyết, mọi khế ước, mọi hội kín, mọi cuộc cách mạng đều chỉ là ngụy lý, ngụy tạo, là lừa bịp. Cố Tổng thống Ba Lan Lech Kaczyński (1949-2010) người vừa bị tử nạn trong vụ rơi máy bay trên đường bay đến rừng Katyn tham dự lễ kỷ niệm 22.440 người con ưu tú của dân tộc Ba Lan bị Hồng quân Liên Xô chôn sống hồi đầu chiến tranh thế giới thứ hai; trong bài diễn văn viết sẵn mà ông không còn cơ hội để đọc, có đoạn viết như sau: “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất luôn luôn giải phóng cho con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hòa hợp.”
Lấy ý tưởng từ câu cách ngôn kinh điển của K. Marx và lời trăn trối thiêng liêng thống thiết lớn lao của ngài cố Tổng thống Ba Lan trên, chúng tôi viết bản tham luận theo yêu cầu của Hội Nhà văn Việt Nam này.
Dostoyevsky, nhà văn vĩ đại nhất của chủ nghĩa hiện thực Nga và thế giới, từng tuyên ngôn rất hoa mỹ, rằng: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”. Chúng tôi thêm: “Sự thật sẽ cứu chuộc thế giới”. Sự thật sẽ cứu chuộc nền văn học của chúng ta, cứu chuộc Tổ quốc ta, nếu chúng ta cả gan một lần cùng nhau: “Gọi sự vật bằng tên của nó” theo cách ngôn của phương Tây.
Nếu Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt chửng toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía nam sông Dương T ử.
Chúng tôi viết bản tham luận này cũng để nhằm hưởng ứng cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực đất nước hôm nay” do Ban Tuyên giáo Trung ương vừa tổ chức tại Đà Lạt trong hai ngày 12-13/7/2010 với hơn hai trăm văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình hàng đầu Việt Nam tham dự. Cuộc hội thảo dũng cảm kêu gọi văn nghệ sĩ từ trên mây tỉnh giấc, quay về với hiện tình đất nước, do GS.TS. Phùng Hữu Phú (Ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình Trung ương), chỉ đạo. Theo Đại từ điển tiếng Việt trang 803, từ “hiện thực” có nghĩa như sau: “Cái có thật, tồn tại trong thực tế” (Bộ Giáo dục & Đào tạo–Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam-NXB Văn hóa Thông tin xuất bản 1998). Như vậy, khái niệm “hiện thực” chính là sự thật đã và đang xảy ra trong thực tại trên đất nước ta. Cuộc hội thảo của Ban Tuyên giáo Trung ương vừa qua có thể được gọi bằng một cách khác: “Văn học nghệ thuật phản ánh sự thật của đất nước hôm nay”. Muốn phản ánh được sự thật của đất nước hôm nay, việc trước tiên của chúng ta là phải nhìn ra sự thật, gọi đúng tên sự vật, không phải sự thật tô hồng hay sự thật bôi đen, mà sự thật đúng như nó đang tồn tại khách quan quanh ta.
Lâu nay, vẫn nghe dân gian xì xào nửa hư nửa thực rằng: “Các thế lực thù địch (xin lỗi, tiên sư nó) nói cái gì hình như cũng đung sắc đúng, Ban Tuyên giáo Trung ương (xin lỗi) nói cái gì hình như cũng sờ ai sai…” thì quả là chưa chắc; bằng chứng là trong hoàn cảnh đất nước mà sự thật trốn biệt như hôm nay, thì việc Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn chúng ta hãy mở mắt, từ bỏ giấc nam kha vô tích sự quá dài để nhìn vào sự thật, nói lên sự thật đất nước, là một việc làm quá đúng.
Tất nhiên, sự thật mà Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn nhìn nhận được nhìn bằng mắt thường, chứ không phải sự thật bịt mắt bắt dê, hay sự thật được nhìn bằng mắt kẻ khác, nhìn bằng những thấu kính ảo, kính lồi, kính lõm, hay chiếc gương chiếu yêu, chiếu bóng… Thâm ý của Ban Tuyên giáo Trung ương hình như muốn chúng ta tìm lại phong trào “Nói thẳng, nói thật” thời kỳ Đổi mới năm 1986 -1987 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát động?
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trong cuộc gặp mặt văn nghệ sĩ năm 1987, đã làm gương nói thẳng nói thật, khi ông đặt vấn đề rốt ráo cho văn học nghệ thuật là nhà nghệ sĩ phải có tự do sáng tác; ông nói: “Cởi trói như thế nào, cởi trói nói ở đây trước hết là Đảng phải cởi trói cho các đồng chí… Tôi cho rằng khi những sợi dây ràng buộc được cắt đi, sẽ làm cho văn học nghệ thuật như con chim tung cánh bay lên trời xanh…”.
Rõ ràng, qua lời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đảng đã thừa nhận từng trói văn nghệ sĩ và trí thức rất nhiều năm. Lần này, Ban Tuyên giáo Trung ương, thông qua cuộc hội thảo cấp nhà nước “Văn học nghệ thuật hướng vào sự thật của đất nước” đã khuyến khích kẻ hèn này là chúng tôi nói lên sự thật, toàn là những sự thật chết người, sự thật mà chính quyền cố tình giấu diếm vì món lợi của quyền lực, với sự ngụy biện chống lại lẽ phải, chống lại chân lý: “Nói ra sự thật lúc này không có lợi”. Chả lẽ vì cái lợi, vì miếng ăn mà chúng ta đành phải nói dối hết đời ông đến đời cha, hết đời con đến đời cháu hay sao? Vậy chừng nào nhà nước Việt Nam mới cho người dân chúng tôi công khai nói ra sự thật đây? Chúng tôi đành lấy lời dạy của K. Marx làm bùa hộ mệnh: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để một lần cuối cùng nói ra sự thật của đất nước chúng ta, dẫu có bị bị làm phiền, thậm chí bị tù đầy cũng mặc. Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi.
Được lời như cởi tấm lòng, chúng tôi xin kể ra SỰ THẬT ĐẤT NƯỚC qua mắt mình, cái mà nền văn học của chúng ta lâu nay lảng tránh, làm ngơ, mặc “quốc gia hưng vong”, “ thất phu” thay vì “ hữu trách” thì hầu như cánh “thất phu” nhà văn thảy đều “tắc trách”… Chúng tôi mong 700 tờ báo của lề phải, tức báo của Đảng và nhà nước, hãy hạ cố chỉ ra những sự thật mà chúng tôi gọi tên trong bài tham luận này đúng hay sai. Còn nếu quý vị dùng công an hay nhà tù để đối thoại với chúng tôi thì quý vị đã mặc nhiên thừa nhận chúng tôi nói đúng; chỉ vì đuối lý mà quý vị mới phải dùng hạ sách là làm phiền chúng tôi, đe dọa chúng tôi thì quý vị đã không chính danh quân tử, dùng nền chính trị bá đạo ứng xử với người dân, khi người dân dám nói lên sự thật để hi vọng trên đất nước đau thương và cam chịu này le lói một nền chính trị vương đạo, dựa vào sự thật, lương tri và lẽ phải. Trong hàng trăm sự thật nhãn tiền của đất nước, chúng tôi chỉ xin kể ra ba sự thật mà thôi.
        
                                                     
Chưa bao giờ số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu. Ngoại bang dùng chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 100 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong lòng địch”. Đến nỗi, khi giặc chiếm Hoàng Sa rồi đặt tên quận huyện cho quần đảo này, sinh viên thanh niên biểu tình chống giặc lại bị nhà nước Việt Nam bắt. Vậy, nhà nước chúng ta hiện nay đứng về phía ngoại bang xâm lược hay đứng về phía nhân dân ta? Cũng chưa bao giờ như hôm nay, thiên nhiên và môi trường sống trên nước ta lại bị phá hoại khủng khiếp như thế: rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng…
Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải… Một ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh Hà Giang chơi gái vị thành niên do ông hiệu trưởng trường trung học Sầm Đức Xương bắt các cháu nữ sinh là học sinh trong trường làm điếm, nhằm cống nạp cho các quan đầu tỉnh. Nghe nói ông Nguyễn Trường Tô, ông Sầm Đức Xương từng là những người nhiều năm liền được bằng khen vì thành tích học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Một sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa từng là đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình một cách man rợ, không phải là cá biệt trong một xã hội con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau được đưa tin đầy tràn trên các trang báo lề phải. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ hơn dã thú đang là vấn nạn quốc gia, có thể đưa một dân tộc vốn có văn hóa, văn hiến bốn nghìn năm tới chỗ diệt vong… Không nhìn ra những nguy cơ chết người này, liệu 100 năm nữa Tổ quốc Việt Nam chúng ta còn tồn tại không? Dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không?
Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đúng như ý kiến của ông Phó Th ủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá: thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục. Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa… là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ… lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị tiến sĩ chẳng còn giá trị gì cả. Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo dục ra chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 tiến sĩ, sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù tiến sĩ trên phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được học vị tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính trị hóa nền giáo dục… đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính? Đây là dấu hiệu suy vong lớn nhất của dân tộc do nền giáo dục thiếu tính nhân văn, thiếu tính chân thật gây ra. Những quả bom B52 tinh thần là nền giáo dục đi chệch hướng chân thiện mỹ đang rải thảm lên tinh thần dân tộc, thì ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây?
Than ôi, sau những quả bom tinh thần có tên là giáo dục mà chế độ tự ném vào mình, chỉ cần ngoại bang ném bồi thêm mấy quả bom thật vào hai đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình là đồng bằng Bắc Bộ và cả Hà Nội sẽ biến mất, dân tộc sẽ biến mất… Hai đập thủy điện khổng lồ trên nghe đâu lại nằm trên vết nứt động đất… mới hãi hùng làm sao? Đầu nguồn sông Hồng, đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Qu ốc đã và đang xây hàng trăm đập thủy điện, khiến hai con sông chính của đất nước khô cạn dần, không còn đủ nguồn nước tưới cho hai đồng bằng chính nuôi sống dân tộc. Cách Móng Cái 60 km , tại Phòng Thành, Trung Qu ốc đang xây nhà máy điện hạt nhân rất lớn; nếu có sự cố kiểu Chernobyl vào mùa gió bấc, Hà Nội và dân đồng bằng Bắc Bộ có thể sẽ chết hết vì nhiễm phóng xạ hạt nhân…
SỰ THẬT HAI
Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không? Không! Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi. Vụ tham nhũng mới nhất như một đòn hiểm ác đánh một cú chí tử vào đất nước là tập đoàn Vinashin – một nấm đấm thép của chính phủ – đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Cứ thử làm tròn dân số nước ta là 90 triệu người (thực ra dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân), vị chi mỗi người dân vừa bị tập đoàn quốc doanh Vinashin cướp đi gần 9.000.000 đ. Chín triệu đồng với người nông dân là một nguồn vốn lớn: một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, đã vừa bị Vinashin cướp đi nhãn tiền 36.000.000 đ. Đã có bao nhiêu tập đoàn Vinashin cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Những nấm đấm thép của chính phủ như các tập đoàn kinh tế: tập đoàn Than, tập đoàn Điện, tập đoàn Khoáng sản… đã và đang đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam. Theo kiểm toán nhà nước, năm 2008, các tập đoàn kinh tế – nắm đấp thép – đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Năm 2009, số thất thoát (đổ tội cho lỗ vốn) cũng không nhỏ hơn số 10 tỷ đô la năm trước. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh, các công ty quốc doanh đang là đại họa cho quốc gia; chứng tỏ thành phần kinh tế rường cột của mô hình xã hội chủ nghĩa này đã hoàn toàn thất bại. Về quốc nạn tham nhũng, bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cao cấp của chính phủ đã phải cay đắng thừa nhận “bọn nắm đấm thép – chúng nó ăn hết tiền của dân rồi” như sau: “Một khi vẫn còn các ông lớn chủ đạo vẫn ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực kinh tế tăng tốc được” (Tuần Việt Nam 22/07/2010).
Tại sao nhà nước ta hiện nay vốn có hai chính quyền cồng kềnh, chồng chéo nhau, giẫm đạp lên nhau: một chính quyền theo hệ Đảng và một chính quyền theo hệ nhà nước với hàng vạn ban thanh tra, hàng vạn chi bộ bốn năm sáu tốt, với hầu hết mấy triệu đảng viên gương mẫu đều đã học tập tốt đạo đức Bác Hồ, mà giặc tham nhũng lại ngang nhiên hoành hành trắng trợn từ vi mô đến vĩ mô đến như vậy? Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là LAO ĐỘNG LÃNH ĐẠO mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỉ lần là sao? Chung quy lại, có phải là do thể chế sai, mô hình chính trị sai: VỪA ĐÁ BÓNG VỪA THỔI CÒI, VỪA ĐI THI, CHẤM GIẢI VỪA PHÁT GIẢI VỪA ĐƯỢC LÃNH GIẢI. NHÀ NƯỚC – ĐẢNG MỘT MÌNH MỘT CHỢ: VỪA THAM NHŨNG VỪA CHỐNG THAM NHŨNG? Xin hỏi: tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không?
Linh hồn triết học duy vật biện chứng Marxism nằm ở câu kinh mà đảng viên cộng sản nào cũng phải thuộc làu làu: “Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất”. Chỉ trừ nền chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không hề nằm trong quy luật vận động này của Marx, vì nó triệt tiêu đối lập chính trị!
Nền chính trị độc đảng, độc quyền của nước ta hôm nay đang chống lại biện chứng pháp Marxism. Trong phép biện chứng do Hegel sáng tạo, Marx tiếp thu, có ba nhịp như sau: xuất đề, phản đề và tổng đề. Phản đề hay đối lập chính là linh hồn của biện chứng pháp Marxism. Chối bỏ đối lập, triệt để cấm phản đề, cấm đối lập chính trị, nền chính trị của nước ta ngày nay đang chống lại chính cái lý thuyết chủ nghĩa cộng sản mà nó thề nguyền đi theo, thành ra một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời Trung cổ bên châu Âu.
Hãy xem khẩu hiện rất duy tâm, hoàn toàn chống lại thuyết Marxism của Đảng cầm quyền: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh MUÔN NĂM”. Marx từng giải thích tại sao loài người thống khổ: vì loài người còn phân chia giai cấp. Mục đích của Marx là làm cho nhân loại tiến đến đại đồng, tức tiến đến thiên đường cộng sản. Muốn đến thế giới cộng sản, phải xóa bỏ các giai cấp: xóa bỏ giai cấp tư sản, xóa bỏ giai cấp vô sản, xóa bỏ nhà nước, xóa bỏ công an, quân đội, tất nhiên phải xóa bỏ cả Đảng Cộng sản, vì Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp vô sản. Mà khi xóa bỏ giai cấp, thì đảng của giai cấp cũng không còn. Hô “Đảng Cộng sản Việt Nam MUÔN NĂM” cầm bằng như hô: “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm”! Rõ ràng hô như vậy là treo cổ chủ nghĩa Marx, là không chính danh, là tự xóa bỏ tính mục đích của Đảng Cộng sản.
SỰ THẬT THỨ BA: NÓI MỘT ĐÀNG, LÀM MỘT NẺO, HAY LÀ DANH KHÔNG CHÍNH THÌ NGÔN KHÔNG THUẬN
Đảng, Nhà nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.
Xin chứng minh
Trong Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam người dân được hưởng tất cả các quyền: quyền sống, quyền làm người, quyền hoạt động chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng phái, quyền biểu tình, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do đủ thứ…
Chính sách hộ khẩu đã cấm tự do cư trú.
Quyền được biểu tình của dân bị cấm chỉ bởi một nghị định (do Thủ tướng Phan Văn Kh ải ký): cấm từ năm người trở lên tụ tập hay đi hàng dọc ngoài đường, ngoài phố. Anh bạn chúng tôi có 5 đứa con, cộng hai vợ chồng là 7 người, mỗi sáng Chủ nhật anh chị dẫn bầy con đi tập thể dục tại công viên cách nhà hơn cây số . Đoàn rồng rắn tí hon của anh chị không thể đi thành một hàng, mà phải bí mật xé lẻ thành hai tốp, anh dẫn 3 đứa con, chị dẫn 2 đứa con giả vờ không quen biết nhau, đi vào hai lề đường khác nhau, sợ đi chung sẽ bị công an bắt… Anh bạn này tâm sự: ra Quốc lộ số 1, qua một số đường phố ở các thành phố nhỏ, thấy trâu bò được ung dung đi thành bầy đàn hàng mấy chục con trên đường mà không bị công an bắt? Sao kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò: con bò còn được tự do tụ tập, tự do nghênh ngang rồng rắn trên đường, được Đảng và nhà nước đối xử tử tế hơn hẳn con người… là sao hở các ông trời con?
Tự do tôn giáo bị cái rọ tôn giáo quốc doanh cấm cản. Hàng trăm sư sãi, chùa chiền vốn theo một hệ phái Phật giáo riêng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam đã bị cấm hoạt động, bắt phải vào Phật giáo quốc doanh, nếu không chịu quốc doanh hóa Phật giáo sẽ bị bắt. Công giáo cũng phải thành Công giáo quốc doanh. Cao Đài , Hòa Hảo, Tin Lành… cũng phải vào quốc doanh thì sao gọi là tự do tôn giáo? Ở một đất nước không có TÔN GIÁO TƯ NHÂN, chỉ có TÔN GIÁO QU ỐC DOANH mà cứ xưng xưng toe toét: Việt Nam có tự do tôn giáo.
Điều 4 trong Hiến pháp cho phép chỉ một mình Đảng Cộng sản được nắm quyền lãnh đạo mãi mãi, đã cấm mọi công dân tự do hoạt động chính trị, trong khi quyền người dân được tự do hoạt động chính trị ghi rõ ràng trong Hiến pháp. Điều 4 của Hiến pháp là điều không chính danh.
Đảng và Nhà nước có trên 700 tờ báo giấy báo viết báo hình. Xã hội tự xưng là “nhân dân làm chủ: của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là đày tớ nhân dân”. Tai ngược thay, chính anh đầy tớ này được độc quyền ra báo, lại cấm ông chủ ra báo là sao? Marx – sinh thời từng ca ngợi nền tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Marx lên án cay độc nhà vua Phổ kiểm duyệt báo chí theo kiểu nhà nước Việt Nam hôm nay lùa tất cả nền báo chí nước nhà vào cái rọ lề phải, đánh sập hơn ba trăm blog và website cá nhân trên Internet như lời khoe khoang của ông tổng cục phó Tổng cục An ninh Bộ Công an, trung tướng Vũ Hải Triều… Không có nền tự do báo chí tư sản, nền xuất bản tự do tư sản, không thể xuất hiện chủ nghĩa Marx. Nếu Karl Marx tái sinh xuất hiện giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay, chắc chắn cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị lính của ông Vũ H ải Triều bắt ngay tắp lự.
Khi người dân không có quyền ra báo tư, lập nhà xuất bản tư… cũng có nghĩa người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận.
Khi Hiến pháp đã cho công dân cái quyền thì người dân không phải đi xin. Hiến pháp bảo công dân có quyền sống, quyền làm người, vậy chả lẽ khi sống là phải thở, phải ăn, phải mặc, phải yêu vợ… thì cứ mỗi lần thở, mỗi lần ăn, mỗi lần mặc, mỗi lần yêu vợ… lại phải làm đơn xin phép công an à?
Hiến pháp của các nước dân chủ văn minh sinh ra để bảo vệ người dân, đảm bảo nhân quyền, dân quyền và mọi quyền tự do của dân, cốt yếu để ràng buộc kẻ cầm quyền. Hiến pháp nước ta hiện nay sinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo Hiến pháp, tự tung tự tác, làm ngược lại Hiến pháp mà không bị luật pháp ràng buộc là sao?
Quốc hiệu nước ta hiện nay xưng là: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực ra có đúng không? Thưa không! Vì nền kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay là nền kinh tế thị trường, tức nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một chủ nghĩa tư bản hoang dã. Vậy quốc hiệu nước ta muốn sát với “sự thật của đất nước” như gợi ý của Ban Tuyên giáo, phải đặt lại là: “Cộng hòa Tư bản Chủ nghĩa Việt Nam” mới chính danh.
Chủ nghĩa xã hội nói cho cùng là một mô hình ảo, hoàn toàn không có thật. Hồi chúng tôi theo học tại Học viện Gorky bên Liên Xô năm 1988, thường nghe dân Liên Xô định nghĩa về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Lenin-Stalin như sau: “Chủ nghĩa xã hội là con đường vòng vèo nhất, đầy máu và nước mắt nhất, khốn nạn nhất để đi lên tư bản chủ nghĩa”. Liên Xô, với mô hình xã hội chủ nghĩa trại lính (hay trại tập trung) đã phải mất 74 năm đi vòng vèo trong máu xương, ngục tù, trong đày đọa của những quần đảo Gulag hắc ám, man rợ… để năm 1991 mới tới được nền kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa. Quốc hiệu của nước ta như vậy là không chính danh.
Cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào đít khái niệm kinh tế thị trường của nhà nước ta hiện nay là một cái đuôi giả, một cái đuôi nhựa chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Qu ốc. Theo nghĩa từ điển: “định hướng” có nghĩa là xác định phương hướng, mà điểm tới đã được xác định cụ thể. Ví dụ ông A hẹn ông B qua điện thoại, rằng mai ta gặp nhau ở Hồ Con Rùa, tập kết tại đó ăn sáng, uống café, định hướng Buôn Ma Thuột mà tới Plây-ku nhé! “Xã hội chủ nghĩa” là khái niệm ảo trên giấy, chưa có thật trên đời và sẽ không thể có thật vì nó dựa trên những nguyên lý ảo tưởng, bịa đặt, phi khoa học.
Đưa đất nước đi vào chỗ không có thật, định hướng tới cõi không có thật mà đến thì than ôi, thà giết đất nước đi còn hơn! Nên khẩu hiệu “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” in trên đầu tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu theo tiêu chí “hướng về sự thật” của Ban Tuyên giáo chỉ dẫn, phải đặt tên lại cho đúng với thực chất ngữ nghĩa của từ điển là: “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa không có thật” mới đúng. Không có sự thật đi kèm, mọi lý thuyết, mọi mô hình xã hội, mọi lời hứa đều là sai trái, ảo tưởng, hứa hão, đúng như K. Marx đã nói.
Đồng nghĩa Đảng Cộng sản là đất nước, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc là không chính danh. Đảng Cộng sản mới chỉ có 5 triệu đảng viên, còn nhân dân Việt Nam ngoài Đảng chiếm đa số tới hơn 80 triệu dân, có phù phép kiểu gì, Đảng Cộng sản cũng không thể biến thành đất nước Việt Nam được. Đảng nghĩa là phe phái, là một nhóm người. Một nhóm người sao có thể biến thành tất cả được, nên danh từ ĐẢNG TA dùng để gọi Đảng Cộng sản là không chính danh. Liên Xô đã bỏ ra 74 năm để tìm mà không thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy trại tập trung, thấy nhà tù nhiều hơn trường học. Lenin, Stalin, Mao… đã biến nhân dân các nước Nga, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, hàng chục nước Đông Âu… thành hàng tỉ con chuột bạch cho cuộc thí nghiệm máu cộng sản chủ nghĩa bằng bạo lực, bằng cải tạo áp đặt, bằng thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo nhưng đã thất bại hoàn toàn. Liên Xô, Trung Qu ốc, Việt Nam, Đông Âu giờ đã đi theo tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm ảo, nên khẩu hiện “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là rất buồn cười, giống như nói “Yêu nước là yêu cái không có thật” vậy…
Quốc hội nước CHXHCN VN được Đảng Cộng sản và nhà nước phong cho là cơ quan lập pháp cao nhất của nhân dân Việt Nam là không chính danh. Vì thực tế, Quốc hội này chỉ là cơ quan ngoại vi của Đảng, do Đảng lãnh đạo; Quốc hội mà 98% dân biểu là đảng viên của một đảng duy nhất thì việc gọi Quốc hội này của dân là một trò hề, là không chính danh; Quốc hội này của Đảng, dân nào có quyền bính gì trong Quốc hội giả hiệu này?
Việc một nhóm người không ai khiến, tự nhiên nhảy phóc ra đấu trường xã hội ngót trăm năm nay, hung hãn cầm mác cầm lê cầm búa cầm liềm cấm cản những nhóm người khác lập phe đảng là không chính danh, không logic, không công bằng, không có luật hay chỉ là luật rừng?
Đảng Cộng sản Việt Nam không do nhân dân Việt Nam bầu ra, nên sự tồn tại của Đảng để tuyệt đối cầm quyền là không chính danh. Đúng như Mao nói rằng chế độ chuyên chính vô sản của ông ta là do súng đẻ ra: “Súng đẻ ra chính quyền”, tức là SÚNG BẦU RA CHÍNH QUYỀN… Mấy chục năm nay, người ta đã cố tình gọi nhầm SÚNG là DÂN: “súng bầu lên chính quyền thì lại nói dối là dân bầu”… Cũng giống như (giả dụ thôi, hi vọng đừng biến thành sự thật!) sau bài viết này, công an gọi tên Trần Mạnh Hảo lên… dọa bắn; Hảo ta vốn là một con cáy 64 tuổi biết cầm bút, thấy súng há mồm sắp đối thoại với mình, sợ vãi đái, nghĩ mình miệng hùm gan sứa, sức đâu cãi lại miệng súng, đành phải ký vào giấy cung khai rằng: báo cáo các anh, em đã nói sai, đã nói dối, vì Đảng ta và nhà nước ta từ xưa tới nay thật thà hơn đếm, có biết nói dối là gì đâu. Thế rồi báo An ninh hôm sau hí hửng: trước lý lẽ sắc bén và thực tế sáng ngời chính nghĩa của nhân dân, tên Hảo đã không đủ lý lẽ đối thoại, đã ăn năn hối lỗi vì dám vu cáo cho Đảng ta nói dối…
Việc Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 theo thuyết Marxism là không chính danh.
Marx bảo: chủ nghĩa tư bản xuất hiện với đại công nghiệp. Marx lại bảo phương thức kinh tế châu Á không nằm trong chủ nghĩa Marx. Marx phán: giai cấp vô sản là hệ quả của giai cấp tư bản. Nghĩa là tư bản đẻ ra vô sản. Trung Hoa , Việt Nam và cả châu Á, thế giới Ảrập, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Phi Châu… trong thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20 chưa hề có chủ nghĩa tư bản. Năm 1930, Việt Nam chưa có ông bố tư bản, sao lại có đứa con tên là vô sản ra đời? Bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản Đông Dương là không chính danh, là trái với thuyết Marxism, là xây nhà trước, xây nền nhà sau.
Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương nêu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh. Diệt trí thức là diệt đi hai ông đại trí thức Marx-Engels ư? Trí thức là linh hồn của xã hội, diệt trí thức cũng có nghĩa là diệt luôn xã hội loài người.
Năm 1958 – 1960 Bắc Việt Nam (năm 1975 là cả nước) tuyên bố tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với “mo cơm và quả cà”, không thông qua con đường tư bản chủ nghĩa theo sự xúi dại của Lenin là không chính danh. Theo Marx, linh hồn của xã hội chủ nghĩa là đại công nghiệp; chỉ có nền nông nghiệp lạc hậu mà dám thí mạng cùi tiến lên xã hội chủ nghĩa là tiến lên toàn dân cùng chết đói, hay tiến lên công xã kiểu diệt chủng như Khmer Đỏ, tiến lên “đại nhảy vọt” kiểu Mao khiến mấy chục triệu người chết đói, dân chúng phải ăn thịt cả con mình như cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội do Thông tấn xã Việt Nam vừa phát hành đã kể. 












Công Nhân: 3 năm trong tù, tôi đã đọc kinh thánh trọn bộ. Trong tù, Chúa là người bạn của tôi, người thầy của tôi, và là người đồng đội của tôi. http://www1.voanews.com    &   Trịnh Hội Blog

L/S LÊ THỊ CÔNG NHÂN : ANH THƯ CỦA NUỚC VIỆT
Tuyết Mai, Mar 06, 2010 Ngày 6 Tháng 3, 2010          http://www.calitoday.com

LS Lê thị Công Nhân được CSVN trả tự do. Đây là một ngày vui lớn của người Việt trong và ngoài nước. Từ sau ngày bị CSVN bỏ tù vì những sinh hoat anh dũng đấu tranh cũng như những lời phát biểu can trường, Luật sư Lê thị Công Nhân được giới trẻ cũng như đồng bào VN trong nước và khắp nơi trên thế giới thán phục, ngưỡng mộ như một anh thư của nước Việt.

CSVN đã dùng bạo lực, lao tù để đàn áp nhân dân VN từ bao nhiêu năm qua . Sự bắt bớ, giam cầm Luật sư Lê thị Công Nhân là một hành động “ xúc tác” đã kích thích, tạo nên sự đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào trong và ngoài nuớc thành một lực lượng thống nhất, trong công cuộc đấu tranh giành lại quyền sống. Những sinh hoat đấu tranh và những lời phát biểu can trường của cô đã là những ngọn đuốc soi đường, là gáo dầu châm thêm vào ngọn lửa, làm cho khí thế tranh đấu ngày thêm bùng cháy mãnh liệt trong lòng người dân Việt trong nuớc và khắp nơi trên thế giới hiện nay.

Trong ngày LS Lê thị Công Nhân được trả lại tự do, chúng ta cũng nên nhắc lại những sinh hoạt chính trị , những lời tuyên bố can trường đã biến cô trở thành biểu tượng, niềm hãnh diện của người phụ nữ VN nói riêng, của dân tộc VN nói chung.

Trước khí thế đấu tranh mãnh liệt của đồng bào và với tinh thần bất khuất của Luật sư Lê Thị Công Nhân, CSVN đã hoãng sợ. Họ đã dùng nhiều thủ đoạn, từ đặt ra “ luật pháp rừng” đến những trò nhỏ nhen, đê tiện để bôi bẩn cá nhân LS Lê thị Công Nhân.

Được biết, Lê thị Công Nhân học Đại Học Luật Khoa từ năm 1997 –2001, khóa K22. Trong lớp Cô LT Công Nhân là một sinh viên khá, nhất là Anh Văn . Cô học tiếp hai năm để lấy bằng Luật sư, sau đó thực tập tại Văn Phòng Luật Sư Nguyễn Văn Chiến. Ông là Phó Chủ Nhiệm Đoàn Luật Sư Hà Nội.

LS Lê T. Công Nhân có tiếp xúc với một số nhân viên của các cơ quan ngoại giao và thông tấn ngoại quốc, cô có khuynh hướng hoạt động chính trị nên được giới thiệu với Luật Sư Nguyễn Văn Đài. Trong thời gian làm việc với Luật sư Đài , LS Công Nhân được giao làm tư vấn hôn nhân, thừa kế và thảo đơn khiếu kiện thuế, nhưng cô rất hăng hái trong những hoạt động chính trị. Cô đã liên lạc với Linh Mục Nguyễn Văn Lý và Trần Ngọc Thành (quốc tịch Ba Lan), Trưởng chi nhánh Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên tại Ba Lan . LS Lê thị công Nhân cũng liên lạc với một số thành viên trong càc phong trào đấu tranh dân chủ khác.

Từ năm 2004 , khi được nhận vào làm việc ở Văn Phòng Luật Sư Thiên Ân, LS Công Nhân nhanh chóng trở thành cánh tay đắc lực của Luật Sư NguyễnVăn Đài. Trong thời gian này LS Công Nhân đã viết nhiều bài gữi đi cho các Đài và báo ngoại quốc, tố cáo Đảng và Nhà Nước CSVN đàn áp tôn giáo. Cô cũng là người tích cực nhất trong việc mở các lớp học về dân chủ, nhân quyền tại Văn Phòng Luật Sư Thiên Ân.

LS Công Nhân là phát ngôn nhân của Đảng Thăng Tiến, là thành viên của khối 8406 với LM Nguyễn Văn Lý. Trước khi Hội Nghị APEC họp tại Hà Nội, LS Lê Thị Công Nhân đã được mời tham gia “Hội Nghị Quồc Tế VAT/SAVA 2006 về quyền công nhân VN ” do Trần Ngọc Thành thành lập với nhiều thành viên từ Mỹ, Canada, Australia, Ba Lan, Pháp…nhưng cô đã bị ngăn chặn lại ở Phi Trường Nội Bài , không đi Ba Lan được.

LS Lê thị Công Nhân đã từng viết tham luận, nội dung tố cáo Tổng Công Đoàn Việt Nam hiện nay không bảo vệ quyền lợi của người lao động VN , CSVN vi phạm nhân quyền và kêu gọi quốc tế hỗ trợ cả tinh thần lẫn vật chất để lập ra những Công Đoàn độc lập cho Công Nhân VN, đối lập trực diện với Tổng Công Đoàn VN hiện có trong nước, dưới sự kiểm soát của Nhà Nước CSVN.

LS Công Nhân là phát ngôn viên của Đảng Thăng Tiến, đã trả lời nhiều cuộc phỏng vấn của các Đài và báo chí ngoại quốc, và Cô cũng viết nhiều bài nói lên thực trạng của đất nuớc. Tháng 12, 2006 LS Công Nhân đã trả lời cuộc phỏng vấn một tờ báo lớn ở hải ngoại với những lời lẽ phê phán chỉ thị 37/2006/CT-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ về việc quy định một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí. Trong thời gian Hội Nghị APEC 14 họp ở Hà Nội, LS Công Nhân được coi như là một tiếng nói đối lập ở VN, được nhiều giới chức ngoại quốc Hoa Kỳ , Australia …tìm cách đến gặp.

Trong lịch sử VN , trước sức mạnh vũ bão của quân Tàu xăm lăng từ phương Bắc, vì sinh mạng của quốc dân, Vua Trần Nhân Tôn có ý định ban lệnh đầu hàng. Trần Hưng Đạo trình Vua “Nếu Bệ Bạ muốn hàng giặc thì xin hãy chém đầu Thần truớc đã ” và lần thứ hai, Trần Hưng Đạo ra quân phản công tại sông Bạch Đằng, Ngài thề rằng:” Trận này không phá xong giặc Nguyên thì ta sẽ không về sông này nữa” .

Ngày hôm nay truớc sự đàn áp của bạo quyền CSVN, LS Lê thị Công Nhân đã ngang nhiên , khẳng khái tuyên bố: "Thực sự tôi không thể đoán được việc gì có thể xảy ra đối với tôi. Nhưng tôi khẳng định với tất cả luơng tâm, trách nhiệm của mình đối với đất nuớc Việt Nam và dân tộc VN, tôi sẽ chiến đấu tới cùng cho dù chỉ còn có một mình tôi đấu tranh. …

Và CSVN đừng có mong chờ bất cứ một điều gì là thỏa hiệp chứ đừng nói là đầu hàng từ phía tôi. Tôi không thách thức , nhưng nếu CSVN đã quyết tâm thực hiện những hành vi tội ác bằng cách chà đạp lên nhân quyền của người dân VN và muốn dìm VN trong tăm tối về mặt chính trị, nghèo nàn về mặt kinh tế, lạc hậu về văn hóa, kéo dài cho đến trọn đời con cháu của

chúng ta cũng như của chính những người CS, thì họ cứ việc hành xữ với những gì mà họ có..

Gia đình tôi đã chuẫn bị cho trường hợp xấu nhất, đó là tôi sẽ bị khởi tố và có thể bị đi tù. Tôi xin khẳng định một lần nữa, đó chưa phảỉ là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra…

…Tôi đấu tranh dân chủ và nhân quyền cho VN hoàn toàn xuất phát từ niềm tin, từ lương tâm và trách niệm của tôi đối với chính tôi, với dân tộc VN và đối với đấng tạo hóa đã sinh ra tôi…”

Lời phát biểu của LS Lê thị Công Nhân, kiên cường, anh dũng không khác gì lời của anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, còn ghi trong sử sách .

Hai ngàn năm trước đây, Hai Bà Trưng (lúc đó 26 tuổi) là hai vị anh thư, nữ kiệt của Việt Nam oai hùng, đã dạy cho quân xâm lăng nhà Hán từ phương Bắc hiểu … thế nào là người phụ nữ Việt Nam, thế nào là dân tộc VN. Ngày nay Luật sư Lê thị Công Nhân cũng đã dạy cho bạo quyền CS Hà Nội hiểu được… thế nào là người phụ nữ Việt Nam, thế nào là dân tộc VN.

Cái chính sách lao tù của CS đã thành công trong việc đe dọa, đàn áp dân tộc VN chìm đắm trong nỗi sợ hãi mấy mươi năm nay, ngày nay CS bừng sáng con mắt trước một người phụ nữ dáng vóc nhỏ bé, tay yếu chân mềm nhưng chí khí sắt đá, hùng anh, cô chẳng những sẳn sàng hy sinh đời sống vật chất mà sẳn sàng hy sinh luôn cả tính mạng của mình, cô nói “tù tội chưa phải là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra” .

Luật sư Lê thị công Nhân đã khẳng định, nếu bị bắt, trong lao tù :”Tôi sẽ cố gắng hết sức để vẫn tiếp tục công việc truyền bá dân chủ, dân quyền và đấu tranh cho nền dân chủ nhân quyền và tự do cho người dân VN”.

Cái khí phách hùng anh của Luật sư Lê Thị Công Nhân quả thật đã làm cho giới cầm quyền Hà Nội chấn động và đã làm cho người Việt ở hải ngoại cũng như trong nước vô cũng thán phục, ngưỡng mộ - Luật sư Lê Thị Công Nhân là lậc nữ lưu trí thức, là niềm hãnh diện của phụ nữ VN nói riêng, của dân tộc VN nói chung. Cô là hiện thân của con cháu Hai bà Trưng, Bà Triệu trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ, nhân quyền cho toàn dân VN hiện nay.

Trước tinh thần bất khuất của bậc nữ lưu trí thức, có một không hai hiện nay, CSVN vô cùng hoãng sợ . Năm 2006 CSVN đã vội vã ban hành “ Luật Luật Sư” , dựa theo Điều 9 , khoản G quy định nghiêm cấm “Lợi dụng việc hành nghề luật sư , danh nghĩa luật sư để gây ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến lợi ích của Nhà Nước, lợi ích công cộng...”

Nhà nuớc CSVN ra đạo luật “ rừng” này để ngăn chận và quản lý đội ngũ luật sư , để gán ghép cho LS Lê Thị Công Nhân vi phạm luật pháp, vi phạm những quy định đạo đức nghề nghiệp luật sư, để bắt bớ giam cầm hai Luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê thị Công Nhân, để dập tắt tiếng nói vô cùng hữu hiệu của LS sư Lê Thị Công Nhân trên trường vận động chính trị quốc tế.

Hành động nào là hành động gây ảnh hưỏng xấu đến an ninh quốc gia, trật tự an ninh xã hội, xâm phạm đến lợi ích của Nhà Nuớc..?, LS Lê thị Công Nhân chỉ đấu tranh ôn hòa để đòi hỏi những quyền căn bản của con người như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do phát biểu tư tưởng, tự do tôn giáo.. CSVN không thể viết trên giấy trắng mực đen luật lệ của VN nghiêm cấm tự do ngôn luận, tự do phát biều tư tưởng, tự do báo chí, tự do tôn giáo. CSVN phải núp dưới những ngôn từ mơ hồ trừu tượng… “những hành động gây ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia” nhưng những ngôn từ này không thể lừa bịp được quốc tế.

CS có thể dùng bạo lực để giam giữ thân xác bé nhỏ của LS Lê Thị Công Nhân trong ngục tù tăm tối, nhưng tiếng nói của cô đã bay bỏng lên trời cao, đã tạo một hùng khí đấu tranh vô cùng mãnh liệt trong các công động VN hiện nay trên khắp thế giới .

Cái trò bắt bớ , giam cầm, đe dọa không có hiệu quả , nó đã không làm sờn lòng nữ kiệt anh thư Lê thị Công Nhân . Cái hình ảnh xinh đẹp của Cô đã sáng ngời như vầng trăng rằm trong tâm tư mọi người dân Việt .

Luật sư Lê thị Công Nhân, ở cái tuổi 28, tương lai rộng mở, cô có đủ điều kiện và cơ hội để có một đời sống vất chất giàu sang, một đời sống tinh thần hạnh phúc. Nhưng vì quốc gia dân tộc cô chấp nhận hy sinh đời sống vật chất , can đảm dấn thân vào con đường đấu tranh đầy chông gai , nguy hiểm, để nói lên tiếng nói cho hơn 80 triệu người dân VN. Chúng ta nên dành một phhút ưu tư để suy nghỉ về tấm gương hy sinh cao cả này.

Người thiếu nữ có dáng vóc nhỏ bé xinh đẹp đó kêu gọi :”Những gì tôi đã làm được tuy thật nhỏ bé, nhưng nếu mỗi cá nhân chúng ta đừng thờ ơ, nghĩa là chưa ủng hộ thì hãy ủng hộ, ủng hộ rồi mà chưa tham gia thì hãy tham gia, tham gia rồi mà chưa tích cực thì xin hãy mạnh dạng nói lên tiếng nói của mình. “

Sống trong một đất nước không có luật pháp, mà LS Lê Thị Công Nhân vì dân tộc, vì đất nước quê huơng Cô đã anh dũng hành động, can trường nói lên cái khát vọng tự do, dân chủ, nhân quyền của cá nhân cô và của 80 triệu đầng bào ở VN. Chúng ta đang sống ở hải ngoại, có luật pháp bảo vệ…chúng ta sẽ làm gì để góp phần đấu tranh cho đồng bào ruột thịt của mình ở quê nhà? Chúng ta sẽ làm gì để sau này không ân hận mình đã không làm hết sức mình để giúp đỡ người dân VN thấp cổ bé miệng, đang sống trong một đất nuớc bé nhỏ, nghèo khó, trôi nổi điêu linh theo vận nước từ hơn ba mươi năm nay và mãi mãi đến bao giờ?

LS nhắn gởi, CSVN rất sợ tiếng nói của đồng bào ở hải ngoại , vận động với chính giới HK, các quốc gia dân chủ và các tổ chức Nhân Quyền QT, người trong nước thể nói lên được.

Cuộc cánh mạng nào cũng đòi hỏi xương máu và hy sinh. Tự do, dân chủ, nhân quyền không đến với ước mơ suông, không đến với vần thơ tuyệt vời hay lời cầu nguyện. Hãy đóng góp bằng hành động cụ thể, c ùng tranh đấu cho dân tộc mình sớm có được ngày tự do, hạnh phúc. Anh chị em trong lao tù Cộng Sản, người dân trong nuớc đang bị bó tay, bị bịt miệng, tất cả đang đặt kỳ vọng vào … chúng ta ở hải ngoại.

Xin dành một phút suy tư về khí phách hùng anh của Anh thư Nước Việt, LS Lê thị Công Nhân.
  
Tuyết Mai, Mar 06, 2010 Ngày 6 Tháng 3, 2010

-----------------------------------------------

NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ CHO THÂN PHẬN VIỆT NAM
Nguyễn Hồng Dũng, Ph. D, Mar 07, 2010 Cali Today News - 
Có lẽ từ rất lâu người phụ nữ ở Á châu cũng như nhiều lục địa khác trên quả đất bị thiệt thòi trong mọi lãnh vực so với cánh đàn ông, con trai. Tư tưởng của Khổng giáo vốn ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa Việt Nam từ nhiều thế kỷ trước đã phán một phương trình “bất đẳng thức” rằng “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” như một định mệnh oan khiên mà hàng ngàn năm nay, cái nhìn ấy chưa được triệt tiêu khiến hậu quả chắc chắn phải xảy đến là nạn trai thừa, gái thiếu làm tiền đề cho nhiều tranh chấp sanh tử mai sau. Những quan niệm bất công thường do phía nam nhi bày vẽ để áp đặt lên vai phụ nữ với mục đích duy nhất là phục vụ sự ích kỷ, tư lợi của mình. Ở Âu châu cũng chẳng khá gì hơn, một mặt đưa khẩu hiệu “lady first” để làm tấm bình phong nhưng kỳ thật thì thân phận phụ nữ cũng là kẻ chân yếu tay mềm luôn phụ thuộc tấm thân hộ vệ của đức lang quân. Quyền lãnh đạo quốc gia, bầu cử và ứng cử dành cho phụ nữ cũng chỉ lác đác cho đến cuối thế kỷ thứ XX mới vươn lên trong chừng mực khiêm tốn.

Và cũng chính những quan niệm bất bình đẳng giới tính dẫn đến sự bất công trong hành xử khiến những anh thư quả cảm tức khí vùng lên kêu gọi chị em khác cùng nắm tay đấu tranh giành những quyền lợi tương xứng và bình đẳng. Ngày 8 tháng 3 năm 1899 tại Chicago có cuộc biểu tình của phụ nữ ngành dệt đòi giảm giờ lao động và tăng mức lương tối thiểu, tiếp theo đó có khoảng mười lăm ngàn phụ nữ diễn hành trên phố thị Nữu Ước đòi quyền tham gia bầu cử và được xem là những đợt sóng tiên phong trong cao trào đòi bình quyền giới tính. Đây là hành động vô cùng ý nghĩa về mặt nhân bản, đạo đức và pháp lý để mọi người thực hiện trọn vẹn vai trò “nhân ư tối linh” của mình.

Theo sử liệu thì ngày Phụ Nữ Quốc Tế hình thành do những hoạt động trong phong trào thợ thuyền đòi cải thiện môi trường làm việc, ngày 28 tháng 2 năm 1908 một số phụ nữ Mỹ biểu tình phản đối điều kiện làm việc thiếu an toàn, năm sau những người phụ nữ này tụ tập lại để kỷ niệm cuộc biểu dương và biến thành ngày Phụ Nữ đầu tiên. Cuộc họp khoáng đại lần đầu tại Copenhagen quy tụ hơn 100 đại biểu nữ đến từ 17 quốc gia năm 1910 quyết định thành lập Ngày Quốc Tế Phụ Nữ nhằm vinh danh các phong trào nữ giới đòi quyền đầu phiếu và các quyền lợi trong cuộc sống thường nhật. Ngày 19 tháng 3 năm 1911 được đánh dấu lần kỷ niệm quy mô với sự tham dự của nhiều quốc gia như Đan Mạch, Áo, Đức, Thụy sĩ…hàng triệu người diễn hành khắp các nơi để đòi quyền đầu phiếu, bình đẳng trong công tác và nhất là sự kỳ thị tại nơi làm việc phải được nghiêm cấm. Sáu thập niên trôi qua, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc quyết nghị dành nguyên năm 1975 làm năm Phụ Nữ Quốc Tế và chọn ngày 8 tháng 3 để tôn vinh. Từ đó sự thay đổi về vai trò người phụ nữ có một bước nhảy vọt ngoạn mục khiến lắm bộ mặt của xã hội Đông, Tây vươn vai tiến bộ. Nhiều nữ giám đốc điều hành thật nhuần nhuyễn hệ thống quản trị công ty, xí nghiệp đã khẳng định tầm quan trọng trong việc giải phóng thân phận nữ giới khỏi sự ràng buộc lễ nghi tôn giáo, phong tục và quan điểm cố chấp của chế độ gia trưởng. Thật vậy, người phụ nữ có nhiều đóng góp tài năng, trí tuệ, công sức lao động trong mọi lĩnh vực xã hội và đời sống như Tổng thống, Thủ tướng, Khoa học gia và biết đâu tương lai sẽ có Nữ Giáo Hoàng hoặc Nữ Đạt Lai Lạt Ma trong lĩnh vực tâm linh là điều không cần tưởng tượng Tuy thế giới chuyển mình để sự công bằng phái tính có dịp đâm chồi nẩy lộc nhưng quá nhiều người phụ nữ Việt nam tại chính quê hương mình vẫn còn bao bất công trong lãnh vực thương nghiệp, chính trị, giáo dục và đặc biệt là phẩm giá đạo đức đáng báo động.

Vấn nạn bạo hành, nạo thai và tình dục vẫn tiếp diễn ở cấp độ biến thiên tăng, theo con số thống kê của nhà đương quyền Việt Nam đưa ra khiến chúng ta cảm giác chạnh lòng bất an vì sự tiến bộ của nhân loại và xã hội văn minh ngày nay không thể nào chấp nhận được những tệ trạng khủng khiếp diễn ra hàng ngày trên quê hương vốn có một quá trình văn hóa uyên thâm lâu dài. .

Cách đây vài tháng nhân đọc bài báo của ký giả Đông Bàn viết từ Kuala Lumpur tựa đề “Đêm Của Những Cánh Bướm Việt Ở Malaysia” đại khái là những cô gái Việt sang đây hoạt động khiến giới taxi tại thủ đô Hồi giáo này kháo nhau là con gái Việt nam đẹp lắm; một cô gái tên Thủy hỏi lại ký giả rằng anh có hãnh diện về lời kháo nhau của đám taxi?. Dĩ nhiên câu trả lời chỉ là mối thương cảm vì sau chữ đẹp lắm còn hàm chứa nghĩa gì nữa đây?

Thật đáng buồn và chua xót cho con, em, những thiếu nữ là đồng bào của mình phải bươn chải ra nước ngoài tìm miếng ăn bằng thân xác cho thiên hạ mua vui. Thật là cay đắng khi chữ “quá rẻ” được quảng cáo từ đám ma cô ngoại lai để dụ khách làng chơi trên những tấm thân quằn quại đớn đau. Người phụ nữ Việt nam đẹp là điều hãnh diện của quốc gia và cá nhân người viết bài này đã nhiều năm làm giám khảo trong các cuộc thi hoa hậu tại Bắc California vô cùng hạnh phúc khi thấy thế hệ tương lai vừa đẹp, ngoan hiền và đầy đủ kiến thức. Đó là tài sản quý báu mà Thượng đế ban tặng cho nòi giống Lạc Hồng. Nhưng tâm trạng hôm nay không phải vậy, xót xa và tủi nhục ê chề khi thấy những con số thống kê mới nhất từ nhà đương quyền cho biết cuối năm 2009 đã có hơn một trăm ngàn cô dâu Việt đang ở Đài Loan, Trung Quốc và Nam Hàn tha thiết xin kết hôn với những kẻ “không kiếm được vợ trên xứ sở mình”, hạng người mà con gái bản địa lắc đầu. Trong số họ có bao nhiêu người già, bịnh tật, tâm thần? Nhà đương quyền là cha là mẹ nở để con gái mình nhắm mắt xuôi tay khăn gói theo ngoại nhân “biệt vô âm tín” chỉ vì lợi nhuận thu tiền hoa hồng? Tiếng là đi lấy chồng ngoại quốc nhưng biết bao nhiêu cô gái phải nhảy lầu tự tử hoặc trốn thoát vì bị giam giữ cho việc nô lệ tình dục đối với đàn ông trong cùng gia đình và dễ dàng sang tay kẻ khác như món hàng giải trí thừa thải.

Số liệu của Liên Hiệp Quốc hiện hành báo cáo rằng gần một triệu phụ nữ và trẻ em gái Việt bị bán qua Trung Quốc, Macao, Đại Hàn, Cao Miên, Hong Kong, Singapore, Nam Dương, Thái Lan v.v.v. Khốn nạn hơn nữa khi hệ thống Ebay tại Đài loan đăng quảng cáo bán đấu giá phụ nữ Việt Nam bắt đầu bằng U.S. $5,400. Có thời đại nào mà giá trị và nhân phẩm một phụ nữ chưa bằng 5 lạng vàng, cả một dân tộc oai hùng và hãnh diện với những chiến công hiển hách năm xưa chẳng lẽ không đủ sức để chống lại sự tuột dốc khủng khiếp của lương tri và tình nghĩa đồng bào? Các nước nghèo nhất trên hành tinh này bao gồm các quốc gia Phi châu lạc hậu chưa bao giờ bị thế giới lên án, chê bai về hành vi bán dâm ấu trỉ nưu trên.

Nguyên nhân đi lấy chồng ngoại quốc được đưa ra là vì “nghèo” không đủ thuyết phục vì xưa nay Việt nam cũng chưa có dịp giàu sang như các cường quốc mà quá khứ chưa hề có phụ nữ rũ nhau lấy chồng ngoại chống nghèo đói? trường hợp Huyền Trân Công Chúa đời nhà Trần năm 1306 lên đường làm vợ vua Chế Mân đất Chiêm Thành để nước Việt bành trướng thêm hai châu Ô, Lý…mà vẫn còn bị trách móc, huống hồ ngày nay con gái Việt biến thành đồ chơi cho thế giới? Chúng ta không loại trừ nguyên nhân sâu xa có lẽ nằm trong sách lược mà nhà đương quyền cần thi hành để mặc cả sự tồn tại của chế độ bất nhân.

Giòng sử Việt sao oai hùng, hiên ngang và thánh thiện biết mấy!! Cứ mỗi năm vào ngày 6 tháng 2 Âm lịch toàn dân cử hành ngày Giỗ Nhị Vị Trưng Nữ Vương, con cháu nước Việt nhớ ơn hai bà đã từng phất cờ khởi nghĩa chống lại quân Nam Hán năm 40 sau Tây lịch. Chúng ta cũng không quên bà Triệu Thị Trinh đã dõng dạt tuyên bố năm 248 rằng "Tôi muốn cuỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông, quét sạch bờ cõi, cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không chịu cúi đầu cong lưng làm tì thiếp cho người ta." Và còn nữa nào nữ tướng Lê Chân, Bùi Thị Xuân, Cô Giang, Cô Bắc..đã tô đậm niềm hãnh diện cho dân Việt trường cửu. Đó chỉ là điểm danh một vài nhân vật lịch sử tiêu biểu còn phụ nữ Việt hầu hết vốn nỗi tiếng công dung ngôn hạnh, đoan trang, khôn khéo. Tại sao ngày nay sau một thời gian thống trị đất nước, Đảng Cộng Sản lãnh đạo thế nào mà gái Việt lũ lượt tìm chồng ngoại bất chấp già, câm, điếc, lác? Nhân phẩm và tư cách của con em chúng ta có được quan tâm giáo dục đúng mức hay chưa? Những đứa con trai Việt nam tuấn tú, kiệt hiệt, xuất chúng biến đi đâu hết rồi khiến cho những đứa con gái phải đành nhắm mắt xuôi chân, để cho con tạo xoay vần về đâu?

Càng nghĩ càng đau, Tổ quốc Việt nam đã mất một phần đất đai và biển đảo cho Trung Cộng, rừng nguyên sinh đã bị ngoại bang thuê mướn dài hạn, phụ nữ rũ nhau tìm chồng ngoại nhân và lớp thanh niên cũng mong mõi xuất dương lao động hợp tác kinh tế, một đất nước tanh bành đầy tham nhũng, trụy lạc và độc tài như vậy thì lẽ nào ta khoanh tay đứng nhìn cho vận nước đi vào mạc lộ.? Sự bàng quang của mình đồng lõa với nỗi hổ thẹn trước tổ tiên và con cháu mai hậu. Nữ ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton từng nói, “nuôi dạy một đứa trẻ phải do cả làng cùng góp sức”, như vậy trách nhiệm giáo dục cho thế hệ hiện tại biết sỉ diện, tự trọng và can đảm không chỉ riêng cha mẹ thầy cô?? Chúng ta nhất định chịu trách nhiệm và có lỗi với sự tủi nhục đớn đau này !!!

Hôm nay là ngày Phụ Nữ Quốc Tế, xin trân trọng dâng lên đóa hoa hồng cho mẹ Việt nam, người Phụ Nữ tuyệt trần với lòng tri ân ấp ủ tình yêu hồn thiêng sông núi. Xin mẹ cho con biết phải làm gì để những đứa em gái nghiệt ngã kia không phá sản sự nghiệp đức hạnh mà mẹ đã dày công trao truyền trên bốn ngàn năm. Hỡi mẹ muôn vàng kính yêu!

Nguyễn Hồng Dũng (March 8th 2010)
 

No comments:

Post a Comment