Saturday, June 9, 2012

Phỏng Vấn Cố Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu - (4 tập)





Đừng nghe những gì cộng sản nói ! hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm. " Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu "

Nhân ngày 30-4: Câu chuyện về 16 tấn vàng

Chuyện xảy ra đã gần 37 năm. Từ đầu năm nay tôi nhận được 6 điện thư từ trong nước, từ Canada và CHLB Đức hỏi về chuyện này
Toàn bài





-










Nguyễn Cao Kỳ "Ngày Ấy Bây Giờ" do Troinam.net thực hiện tháng 5, 2010 gồm 31 Phần (01 đến 31), mỗi phần khoảng 10 phút.

-

Nguyen Cao Ky "Ngay ay - Bay gio" - 02

http://www.youtube.com/user/Troinam 

>> Record of Historic Richard Nixon-Zhou Enlai Talks in February 1972 Now Declassified

CỘNG-SẢN là gì ?

Bí Ẩn 30.4.1975 :Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975? 

Bí Ẩn 30.4.1975.
Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975? Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua...


1) Mở đầu 

Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy - một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ - đã đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên. 

Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc với Giáo sư Huy và đã may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được (xin xem thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới. 

2) Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975? 

Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung... cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975? 

Nhìn trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế. 

Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái. 

- Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống. 

- Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái. 
Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ("đi đêm"!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.

Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới ( - World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright. 

Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 - 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!)

Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger.

3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam? 

a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ 

Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng. 

Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website:http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Irish_Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan
Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_politicians#List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như: 

- trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!). 
- trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton... 
- trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford. 
- trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton. 
- trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan. 
- trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay. 

Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh... 

Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford... (xem website:http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_entertainers). Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái. 

Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm . Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy ( Pháp ) & Thủ Tướng Đức Schmidt ( Đức ) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông . Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ . 

b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam? 

Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này. 

Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm "lá bùa hộ mạng". Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan... , nhưng luôn luôn "sống chết" hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái. 

Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.

c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam. 

Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 - 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975. 

Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng. 

Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ... bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan! ) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác . 

Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được ( rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy ! ) . Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam! 

 
Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines - South Vietnam 1966
Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh. 

Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 - 1999)... Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam. 

Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng. 

Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam. 
Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: 
"Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: 
“ Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng ”. 

Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.

Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận. 

4) Kết luận
Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.

Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi , bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái ( Anti-Semitism ) . Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị xí gạt. 

Điển hình , về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả ( thí dụ : Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 ) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam ( chịu thua ! ) vì đang câu con cá to hơn ( “has bigger fish to fry” ) . Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh . 
Về phía Cộng Sản Bắc Việt , ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh " nướng quân " hàng loạt trên chiến trường ( theo nhận xét của Tướng Westmoreland ! ) , họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng " Đồng Minh tháo chạy " ( từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức !) bỏ rơi VNCH . Thực tế , nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chưa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận . Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! ) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đã xảy ra trong ngày 30.4.1975. 

Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái ( một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh " Về miền đất hứa / Exodus " của tác giả Leon Uris ) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó , Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm " Bài học Israel ( Do Thái ) " . Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc , nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng. 

Chúng tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị sai lầm nữa. Mong thay !
Bình Nguyên (Dịch) _

“Sự thảm bại tại Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chớ không phải do VNCH.” Kissinger Đã Đấm Ngực Thú Tội

 
Lê Thành Nhân

Trong vòng chỉ 3 tháng nay một loạt biến động lớn lao về chánh-trị, ngoại-giao và quân-sự đã dồn dập diễn ra trong khu vực Á châu và Thái Bình Dương.
- Ngày 23-7-2010 Nữ Ngoại-trưởng Hilary Clinton nhân danh đại cường quốc Hoa Kỳ long trọng khẳng định tại Hội-nghị ASEAN ở Hà Nội: ”Hoa Kỳ xem Đông Nam A là khu vục thuộc lợí ích quốc gia của Hoa Kỳ về các phương diện anh ninh, kinh-tế, thương mại.”
- Ngày 24-9-2010, Tổng thống Obama đích thân triệu tập và chủ tọa Hội-nghị thượng-đỉnh tại New York (Second ASEAN Leaders Meeting) với các người đứng đầu các nước ASEAN để chủ động kết hợp các nước ấy trong một thế chiến lược mới. Một bản Tuyên bố chung (Joint Statement) quan trọng đã được công bố, và Tổng thống đã bỗ nhiệm ngay một Đặc sứ thường trực bên cạnh ASEAN tại Trụ sở của ASEAN tại Djakarta .
- Chỉ 5 ngày sau: ngày 29-9-2010: Bộ Ngoại-giao Hoa Kỳ tổ chức một cuộc hội-thảo ngay tại Bộ Ngoại giao tại DC dưới sự điều hợp của Đại-sứ Brynn với đề tài “Kinh nghiệm Hoa Kỳ tại Đông Nam Á” (The American Experience in Southeast Asia : Historical Conference) trong đó diễn giả chính là Henry Kissinger.
- Trong khi chúng tôi đang viết bài nầy thì các đại diện ngoại giao, quân-sự cao cấp của các nước thuộc ASEAN và Hoa Kỳ, Nhựt, Úc, Ấn-độ, v.v…đã bắt đầu Hội nghị các Tổng-trưởng Quốc-phòng (ADMM plus) tại Hà Nội từ ngày 12-10-2010 rồi tiếp tục với những phiên họp riêng giữa các thành viên ASEAN và các cường quốc trong vùng: Hoa Kỳ, Nhựt bản, Ấn độ, Úc, v.v…Phiên họp ngày 28-10-2010 là một phiên họp cao cấp quan trọng với sự tham dự của NT Clinton.
Giữa lúc đó thì chiến hạm Hoa Kỳ tiến sát và tập trận dọc thềm lục địa Á Châu từ Biển Nhựt Bản xuống Ấn-độ dương…có lúc vào tận cảng Tiên Sa (Đà Nẳng) của Việt Nam .
Tất cả những diễn biến đó không phải là những điều ngẫu nhiên.
Trong bài nầy chúng tôi chỉ chú trọng đến cuộc hội-thảo tại Bộ Ngoại-giao ngày 29-9-2010 để tìm hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của các lời phát biểu của Henry Kissinger tại cuộc hội-thảo này (Đọc giả có thể tham khảo bài tường trình ngày 6-10-10 của Người Việt Online)
Các ý-kiến của Kissinger phát biểu trong cuộc hội-thảo nói trên được tóm gọn như sau: “Sự thảm bại tại Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chớ không phải do VNCH.”
Nhân dân Việt Nam và thế giới công chính đã chờ đợi câu nói đó từ 35 năm rồi, nay mới được thốt ra từ chính cửa miệng của Henry Kissinger, vào một thời điểm và tại một địa điểm có tính toán. Bởi vậy, nó có một giá trị vô cùng quan trọng. Nó trả lại danh dự cho hàng triệu chiến sĩ tự do của VNCH, từ nguời dân đen đến cấp lãnh-đạo cao nhứt. Nó giải oan cho hàng triệu linh hồn người Việt đã hy sinh cho Tự do. Nó trả lại DANH DỰ VÀ CHÍNH NGHĨA cho toàn thể Quân Dân VNCH từng bị bọn phản chiến và truyền thông bất lương bôi lọ.
Xin nhắc lại: Henry Kissinger là người chịu trách nhiệm về chánh sách ngoại giao của Hoa Kỳ từng đưa đến việc bán đứng VNCH cho Bắc Việt qua Hiệp-định Paris 1972, sự rút lui của Hoa Kỳ khỏi Đông dương 1975, và giao cho Trung Cộng làm “cai thầu khu vực” với bản Tuyên ngôn Thượng Hải (1972.)
Nixon và Kissinger bị mù mắt vì cái thị-trường khổng lồ béo bỡ của Hoa Lục, không ngần ngại phản bội lại đồng minh của mình. Cảnh tượng xót xa, bẽ bàng nhứt là Đệ 7 Hạm đội Hoa Kỳ nhẫn tâm án binh bất động, đứng nhìn hải quân TC cưỡng chiếm Hoàng Sa của đồng minh VNCH hồi tháng Giêng 1974. Ngày nay, khi Trung cộng trở mặt, sử dụng Hoàng Sa làm pháo đài khống chế Đông Nam Á và Thái Bình dương thì nước Mỹ mới mở mắt và nhận thấy hối hận về sự phản bội đồng minh VNCH của mình 35 năm trước.
Thực vậy, dân tộc Việt Nam là nạn nhân gánh chịu hậu quả thảm khóc nhứt của chánh sách Nixon-Kissinger với “Ngày 30 tháng 4 năm 1975.” Chính chánh-sách đó đã đưa gần 30 triệu nhân dân Miền Nam tự do vào cảnh điêu linh, thống khổ, nhà tan cửa nát, con mất cha, vợ mất chồng, kẻ thì bỏ xác trong ngục tù CS, người thì làm mồi cho hải tặc hoặc vùi thây dưới đáy biển. Không bút mực nào tả hết những tội ác của cộng đảng VN đối với gần 30 triệu dân Miền Nam từ 1975 đến nay.
Lời tuyên bố của Kissinger hôm nay, tuy rất ngắn, nhưng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng: “Sự thảm bại tại Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chớ không phải do VNCH.”
Bằng những lời phát biểu ngày 29-9-2010 tại ngay thủ đô nước Mỹ, lãnh đạo nước Mỹ hiện nay dường như muốn nhờ Kissinger thay mặt nước Mỹ (Bộ Ngoại giao tổ chức) nói lên lời tạ tội và sám hối của nước Mỹ đối với gần một triệu sinh linh của chế-độ VNCH đã chết oan uổng, trong đó hơn nửa triệu đồng bào vượt biên chìm dưới đáy biển, hàng trăm ngàn Dân Quân-Cán-Chính VNCH chết trong các trại tập trung lao-động khổ sai, cộng với hàng trăm ngàn vợ con họ chết trong các “vùng kinh-tế mới” vì đói rét, bệnh tật và rắn rết.
Tại hội-nghị các Bộ-trưởng Quốc-phòng ASEAN (ADMM Plus) họp sau đó tại Hà Nội ngày 12-10-2010, Bộ-trưởng Quốc-phòng Hoa Kỳ Robert Gates đại ý tuyên bố ngay trước mủi của tên BTQP Trung cộng: ”Hoa Kỳ sẽ nhận trách nhiệm bảo đảm an ninh và tự do cho tất cả các quốc-gia ĐNA, nhứt là hải lộ xuyên Biển Đông, vì khu vực nầy thuộc quyền lợi quốc-gia của Hoa Kỳ về các phương diện an ninh, kinh-tế và thương mại.” Trong khi đó thì tàu chiến Hoa Kỳ trang bị vũ khí nguyên-tử đang tập trận với hải quân Nam Hàn ngoài khơi vùng biển của Trung cộng.
Gần hai tỷ dân trong khu-vực Á châu –Thái-Bình-dương thở phào, nhẹ nhỏm! Vì, từ nay, cái “lưỡi bò” hung hăng của tên bá quyền Hán tộc bổng teo lại thành……cái lưỡi gà bé tí tẹo! Không ai còn nghe các tướng lãnh TC khoác lác vung vít về sức mạnh quân sự của CHNDTQ và tham vọng độc chiếm Biển Đông của chúng. Không ai còn nghe cái loa khoác lác của Bộ Ngoại giao TC hàng ngày bô bô lên tiếng đe dọa các quốc gia tiếp giáp với “cái lưỡi bò đói khát”, nhứt là Việt Nam, Nam Dương, Phi-luật-tân, Brunei. Ngay sau khi Bộ-truởng QP Hoa Kỳ tuyên bố như trên, phát ngôn nhân của con cọp giấy Trung cộng bèn rêu rếu thông báo trả tự do vô điều kiện cho 9 ngư dân của đảo Lý sơn/Quảng Ngải bị chúng bắt giữ gần đảo Hoàng Sa cả tháng trước đó.
Các sự kiện trên đây chứng minh là vì cả tin nơi những tính toán sai lầm của tên con buôn chính-trị Kissinger, nước Mỹ phải để gần 40 năm (1972-2010) mới học được cái chân-lý đơn giản: Người CS marxist dù Nga hay Tàu hay Việt, chúng đều phản phúc như nhau. Nhờ sự giúp đỡ trong 40 năm qua của Hoa Kỳ nước Tàu mới thoát khỏi tình-trạng đói khát, lạc hậu và bắt đàu hơi khấm khá. Nhưng chưa chi thì chúng đã quay lại định ăn tươi, nuốt sống người thi ân cho mình. Đó là bản chất của người Cộng-sản Marxist. Hai dân tộc Đức và Nhật cũng được Hoa Kỳ giúp đỡ tái thiết sau chiến tranh, nhưng họ không mang tính phản phúc đó.
Vấn đề mà chúng ta muốn bàn hôm nay là: vì cần mua bán, đổi chác với Trung cộng để trục lợi, bọn chánh khách vô liêm sĩ ở Hoa Thạnh Đốn, đã ra sức gán cho VNCH đủ thứ tội: nào là quân đội không chịu chiến đấu, nào là công chức tham nhũng, v.v…Bọn chánh khách bất lương Âu châu thì kết tội VNCH là tay sai Mỹ chỉ vì ganh ghét với Hoa Kỳ. Nếu quân dân VNCH không chịu chiến đấu thì làm sao giữ vửng người Việt Quốc-gia càng sáng tỏ hơn bao giờ hết. Bây giờ thì không một ai còn nghi ngờ nữa: VNCH còn là còn tất cả! VNCH mất là mất tất cả! Chúng ta đòi hỏi lịch sử và nhân dân thế giới phải trả lại sự công bằng và danh dự cho Quân Dân VNCH, từ người thứ dân cho đến các cấp lãnh đạo Quốc-gia. Trong nội bộ người Việt, yêu cầu những kẻ vô ý thức hay bị CS tuyên truyền tẩy não trong 35 năm qua hãy chấm dứt những luận điệu tự phỉ nhổ mình bắng cách gọi các vị lãnh đạo Quốc-gia, các tướng lãnh của VNCH bằng thằng nọ, thằng kia. Cái cuộc “đổi đời” năm 1975 đã biến “THẰNG thành ÔNG” và đem “ÔNG xuống làm THẰNG” nay đã chấm dứt rồi, vì đó là cái thang giá trị Marxist trong đó “trí thức không bằng cục phân” (lời Mao Trạch Đông.) Thang giá trị (échelle des valeurs) của một xã hội Việt Nam văn minh đạo đức truyền thống phải được tái lập để làm nền tảng cho một nước Việt Nam hậu Cộng-sản. Chúng tôi sẽ bàn đến “hệ thống giá trị chân chính” của người Việt trong một bài khác.dHải ngoại, ngày 28-10-2010 Lê Thành Nhân
- Ngày 23-7-2010 Nữ Ngoại-trưởng Hilary Clinton nhân danh đại cường quốc Hoa Kỳ long trọng khẳng định tại Hội-nghị ASEAN ở Hà Nội: ”Hoa Kỳ xem Đông Nam A là khu vục thuộc lợí ích quốc gia của Hoa Kỳ về các phương diện anh ninh, kinh-tế, thương mại.”
- Ngày 24-9-2010, Tổng thống Obama đích thân triệu tập và chủ tọa Hội-nghị thượng-đỉnh tại New York (Second ASEAN Leaders Meeting) với các người đứng đầu các nước ASEAN để chủ động kết hợp các nước ấy trong một th�=E1��ng được Miền Nam đến 1975, khi mà Mỹ và Trung cộng ngã giá xong vụ buôn bán bẩn thỉu trên đầu nhân dân Việt Nam?
Ngoài ra, sau tháng 4, 1975, nhiều tướng lãnh liêm sĩ Hoa Kỳ đã viết lại hồi ký công nhận tinh thần dũng cảm và khã năng chiến đấu xuất sắc của QL/VNCH. Chúng ta không cần lặp lại ở đây. Còn nếu nói: vì tham nhũng mà chánh quyền VNCH sụp đỗ thì cứ hỏi chả lẽ nhà nước CHXHCN hiện nay ở VN ít tham nhũng hơn VNCH ngày trước? Thế tại sao nó còn nguyên đó hơn 35 năm nay? Cũng trong cùng thời gian với VNCH ai cũng biết ở các lân bang như Thái Lan, Phi Luât Tân, Nam Dương tình trạng tham nhũng trầm trọng hơn cả chục lần, nhưng có nước nào sụp đổ đâu!
Tóm lại, các chánh khách thiển cận, mù quáng của nước Mỹ lúc bấy giờ đã “hy sinh” quyền lợi của đồng minh VNCH với ảo tưởng đổi lấy một thị-trường béo bỡ của nước Tàu. Nhưng sự thật phủ phàng hôm nay là chính cái nước Tàu mà nước Mỹ vỗ béo đó đã đang quay lại ăn thịt nước Mỹ để giành ngôi vị đệ nhứt cường quốc trên thế giới. Và nước Mỹ ngày nay đã tỉnh ngộ, đang trở lại làm y chang cái công việc mà Quân Dân VNCH đã làm trước 1975, tức là chiến đấu chống đế quốc CS Trung quốc. Thế thì VNCH đã bị bức tử một cách oan uổng. Nhờ giương cao ngọn cờ chống lại bá quyền Trung cộng, bảo đảm an-ninh và tự do cho khu vực nên hiện nay Hoa Kỳ đang được nghênh đón trở lại Việt Nam như là môt “hiệp-sĩ.” Như vậy bọn CSVN không còn coi Hoa Kỳ là “đế-quốc xâm lược” nữa. Trái lại chúng coi Hoa Kỳ là vị cứu-tinh, và trả lại danh dự cho nước Mỹ.
Thế còn công lao hy sinh chiến đấu của Quân Dân Miền Nam để ngăn chận làn sóng đỏ của Nga, Tàu trong hơn 50 năm thì sao?
Vì thế, Quân Dân VNCH đòi hỏi nước Mỹ và thế giới phải trả lại danh dự cho họ vì họ đã hy sinh chiến đấu cho Tự do và An ninh của cả thế giới mà đã bị đối xử bất công bằng sự phản bội và bức tử oan uổng năm 1975.
Trên thực tế thì nhân dân Việt Nam trong nước đã làm việc nầy từ khi bọn “cách mạng” đặt chân vào Miền Nam vì, đối với mọi người dân trong nước thì cái gì của “ngụy” cũng tốt hơn “cách mạng”: bác sĩ “ngụy” cũng giỏi hơn, nhạc “ngụy” cũng hay hơn, nhân bản hơn, nếp sống “ngụy” cũng văn minh hơn, người dân “ngụy” cũng ấm no, hạnh-phúc hơn, v v…
Cuối cùng, sau khi chiếc mặt nạ của đảng CSVN kể công đánh ngoại xâm Pháp, Mỹ để giành độc lập bị rơi xuống đất, để lộ cái mặt thật của những kẻ bán nước đem tổ quốc dâng cho Tàu thì cái chính nghĩa bảo quốc của Quân Dân VHCN, của Người Việt Quốc-gia càng sáng tỏ hơn bao giờ hết. Bây giờ thì không một ai còn nghi ngờ nữa:
VNCH còn là còn tất cả!
VNCH mất là mất tất cả!
Chúng ta đòi hỏi lịch sử và nhân dân thế giới phải trả lại sự công bằng và danh dự cho Quân Dân VNCH, từ người thứ dân cho đến các cấp lãnh đạo Quốc-gia. Trong nội bộ người Việt, yêu cầu những kẻ vô ý thức hay bị CS tuyên truyền tẩy não trong 35 năm qua hãy chấm dứt những luận điệu tự phỉ nhổ mình bắng cách gọi các vị lãnh đạo Quốc-gia, các tướng lãnh của VNCH bằng thằng nọ, thằng kia. Cái cuộc “đổi đời” năm 1975 đã biến “THẰNG thành ÔNG” và đem “ÔNG xuống làm THẰNG” nay đã chấm dứt rồi, vì đó là cái thang giá trị Marxist trong đó “trí thức không bằng cục phân” (lời Mao Trạch Đông.) Thang giá trị (échelle des valeurs) của một xã hội Việt Nam văn minh đạo đức truyền thống phải được tái lập để làm nền tảng cho một nước Việt Nam hậu Cộng-sản.
Chúng tôi sẽ bàn đến “hệ thống giá trị chân chính” của người Việt trong một bài khác.

.

Hãy Nhìn Những Gì Nguyễn Tấn Dũng Làm


Ngày 25/9/2011 kỷ niệm 10 năm Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu qua đời. Lẽ đương nhiên là Tổng Thống và Tổng Tham Mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, ông phải chịu trách nhiệm đã để quân Bắc Việt lấn chiếm miền Nam. Việc đánh giá ông là việc của người viết sử và sử sách sẽ công bằng cho một người luôn quyết tâm chống lại Bắc Phương. Riêng việc ông ra lệnh nổ súng vào tàu chiến Trung cộng đã gởi một tín hiệu đến thế giới, đến các thế hệ mai sau Trung cộng chỉ là bọn xâm lược và Hòang Sa mãi mãi là của Việt Nam.
Đất nứơc còn, còn tất cả. Đất nước mất, mất tất cả !” lời của Tổng Thống vẫn văng vẳng nhắc nhở chúng ta trong hòan cảnh đất nước hiện nay. Nhân kỷ niệm ngày Tổng Thống qua đời, người viết xin tri ân sự đóng góp của ông và những người đã chiến đấu để bảo vệ giang san .
Tổng Thống Thiệu còn để lại cho chúng ta một châm ngôn “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”, bài viết này xin được tiếp tục phân tích cùng bạn đọc những gì Thủ Dũng đại diện đảng Cộng sản đã và đang làm.
Nhà cầm quyền Trung cộng ăn làm sao nói làm sao với dân Tầu ?

Trong khi ông Thiệu, một người quốc gia, lấy Tổ Quốc Danh Dự và Trách Nhiệm là phương châm. Thì ngược những lãnh đạo cộng sản như Phạm văn Đồng lại lấy tình đồng chí anh em trong thế giới đại đồng làm cương lĩnh. Vì mối liên hệ như trên, nếu phải nhừơng cho đàn anh Trung cộng một vài hòn đảo thì những đảo này vẫn thuộc phe vô sản, còn hơn để cho “ngụy quyền” đóng giữ. Chính vì nghĩ như thế Bộ Chính Trị đảng Cộng sản mới chấp nhận và Phạm văn Đồng mới ký Công Hàm 1958 ghi nhận và tán thành Bản Tuyên Bố về hải phận của Trung cộng, bao gồm cả Hòang Sa và Trường Sa.
Do hành động bán nước này, phía Trung cộng liên tục sử dụng bức Công Hàm để giáo dục dân Tầu về chủ quyền của họ trên Biển Đông. Trung cộng cũng lấy đó làm cớ để đánh chiếm Hòang Sa 1974, đánh chiếm Trường Sa 1988, rồi tuyên bố Biển Đông thuộc về Trung cộng. Trong tình thế như vậy bạn có tin rằng phía Trung cộng sẽ chịu đối thọai “hòa bình” với giới chức Việt Nam về chủ quyền Biển Đông hay không ? Họ đã chiếm Hòang Sa, chiếm Trường Sa và đang mở rộng kiểm sóat Biển Đông. Họ sẽ ăn nói ra sao với người Tầu khi phải nhừơng lại một mẩu đất một mảnh biển cho phía Việt Gần đây vì cần khai thác tài nguyên trong khu vực, Trung cộng sẵn sàng đối thọai với Phi Luật Tân, nhưng chẳng ngó ngàng gì đến đàn em cộng sản Việt Nam . Đã biết thế nhưng giới chức Hà Nội vẫn đưa tin, vì phía Trung cộng không chấp nhận đối thọai về quần đảo Hòang Sa, bởi thế không có những tiến triển khả quan giữa hai bên. Tin tức kiểu này cũng được một số người tin. Phía Trung cộng lại luôn luôn lớn tiếng tuyên bố: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi với các đảo ở Biển Đông và vùng nước xung quanh…” và tiếp tục lấy Công Hàm 1958 như một chứng cớ hiển nhiên buộc cộng sản Việt Nam chỉ còn ẻo lả “hót” cho qua chuyện .
Thực tế lại cho thấy Trung cộng chỉ sử dụng võ lực khi bắn, khi bắt ngư dân Việt, lúc cắt cáp tàu khảo sát… hay làm áp lực để các công ty ngọai quốc không thể khảo sát và khai thác tài nguyên trên thềm lục địa Việt Nam. Nhà cầm quyền Hà Nội ngược lại chỉ im lặng đến độ hèn nhát, họ tìm mọi cách để kềm chế mọi tiếng nói dân sự liên quan đến Biển Đông.
Nói rõ ra nếu còn hai chế độ cộng sản Việt Nam Trung Hoa thì đừng mong lấy lại Hòang Sa – Trường Sa – Biển Đông.
Thủ  Dũng bán đứng Hòang Sa

Ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990, Phạm Văn Đồng (cũng lại Phạm văn Đồng), Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã bí mật sang Tàu diện kiến Giang Trạch Dân và Lý Bằng. Chuyến đi vô cùng bí mật dấu cả Ngọai Trưởng Việt cộng Nguyễn cơ Thạch. Đại diện hai “Đảng” bí mật ký với nhau Hiệp ứơc Thành Đô. Cho đến hôm nay người dân Việt vẫn chưa biết họ đã ký cái gì với phía Trung cộng. Chỉ thấy càng ngày Việt Nam lại càng bị khống chế bởi người Tầu.
Mười năm sau hai “Đảng” lại ký với nhau hai Hiệp Định về Biên Giới 1999 và 2000. Ngòai lãnh đạo cao cấp cộng sản, người mình chưa ai được thấy mặt mũi hai Hiệp Định nói trên. Hậu quả là Việt Nam mất Bản Guốc, mất Ải Nam Quan, mất hằng ngàn cây số vuông lãnh thổ, hằng chục ngàn cây số vuông Vịnh Bắc Bộ.
Đã thế mà Bắc Phương vẫn chưa thỏa lòng lại tiếp tục mè nheo thêm 227 cây số vuông lãnh thổ Việt Nam.Phải đợi đến cuối năm 2008 khi sang Tàu, Thủ Dũng mới quyết định “cưa đôi cho tiện”. Phe Thủ Dũng vui mừng tuyên truyền: “ta lấy lại 113 cây số vuông lãnh thổ”. Người dân thì lắc đầu ngao ngán than rằng “mất mẹ nó 113 cây số vuông lãnh thổ do ông cha để lại”.
Xuất thân từ nghề cắt bỏ (y tá cộng sản), Thủ Dũng cũng vô tư cắt bỏ lãnh thổ lãnh hải ông cha để lại. Miễn sao việc dâng đất, dâng biển có lợi cho Thủ Dũng và Tập Đòan Cộng Sản. Phương cách hành xử vô cùng đơn giản nêu trên, cho chúng ta thấy nếu Trung cộng chịu để Tập Đòan Thủ Dũng khai thác dầu, thì Hòang Sa -Trường Sa – Biển Đông không phải là vấn đề để Thủ Dũng phải bám theo Mỹ, không cần phải “Quốc Tế Hóa”.
Nói rộng ra nhường đất nhường  biển cho giặc là chủ trương của đảng Cộng sản Việt Nam và quyết đinh kiểu “cưa đôi cho tiện” là nhờ có một lãnh đạo “vô tư” như Thủ Dũng.
Thủ Dũng và Đồng Bọn cũng biết sợ
Hành Động vừa phò Tầu vừa bám Mỹ của Thủ Dũng đã đưa Dũng vào sổ đen những tên phản bội Bắc Kinh. Tình trạng tệ hại hơn khi Wikileaks công bố và Báo Mạng BBC lại đưa tin “Tướng Hưởng than phiền về Biển Đông”. Ngay mở đầu bản tin cho biết: “Tài liệu do Wikileaks công bố cho thấy Thượng tướng công an Nguyễn Văn Hưởng khi còn tại chức đã tỏ ý trách cứ Hoa Kỳ không đứng về phía Việt Nam ở Biển Đông trong cuộc gặp với Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John Negroponte.” (Xin gởi đến bạn đọc nguyên văn Anh ngữ để dễ dàng kiểm chứng “VM Huong expressed his views on China’s territorial claim in the South China Sea and lamented the lack of U.S. support for Vietnam’s position.”)
Trong tài liệu Wikileaks công bố nêu trên và đựơc Báo Mạng BBC loan tin “Ông Hưởng thể hiện ý kiến rằng an ninh khu vực, hòa bình và thịnh vượng không thể có được nếu không có sự hiện diện của Hoa Kỳ và nói thêm sự có mặt của Hoa Kỳ có thể điều phối quan hệ trong khu vực.” (Nguyên văn Anh ngữ “Huong expressed the view that regional security, peace and prosperity cannot be accomplished without the presence of the U.S., adding that the U.S. presence can help regulate relationships in the region.”)
Và “Ông nhấn mạnh rằng Việt Nam muốn có quan hệ tốt với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, nhưng Việt Nam không thể chấp nhận tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.” (Nguyên văn Anh ngữ: “He emphasized that Vietnam seeks good relations with all countries, particularly its neighbors; however, Vietnam cannot accept China’s territorial claims in the South China Sea.”)
Nguyên Bản tiếng Anh cho thấy Báo Mạng BBC đã loan tin hòan tòan trung thực. Được biết trong cuộc gặp gỡ Trung Tướng Công An Cộng sản Nguyễn văn Hưởng vào ngày 11/9/2008 ngòai Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Negroponte, còn có các ông Scott Marciel, Phó trợ lý Ngoại trưởng và ông Michael Michalak Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. Đây là một cuộc gặp gỡ quan trong không có lý gì Bản Từơng Trình có thể sai lạc. Xin vào http://wikileaks.org/cable/2008/09/08HANOI1044.html để xem tòan Bản Từơng Trình.
Mọi người đều biết Tướng Hưởng là vây cánh của Thủ Dũng và là người đã được Thủ Dũng giao trọng trách thực hiện “Chiến lược Biển” đã được phân tích trong bài “Chỉ Tại Cái Công Hàm 1958 !!!”. Đi đêm với Mỹ thật khó. Một cuộc họp cao cấp như thế, một chuyện “tối mật” như vậy lại để lọt vào tay của một tên phản động “Úc thòi lòi” Julian Assange để làm phiền lòng “Thiên Triều”.
Xưa nay đảng Cộng sản rất ít đính chính tin “địch”. Thế mà lần này Tướng Hưởng lại phải mượn tay đàn em chính thức lên tiếng: “Tôi (Nguyễn Như Phong, Đại tá an ninh, nguyên là Phó tổng biên tập Báo Công an Nhân dân, phụ trách chuyên đề An ninh thế giới tuần) – là người được dự nhiều cuộc gặp giữa Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng với phái đoàn Hoa Kỳ, cũng rất ngạc nhiên trước sự việc này.” Ông Phong cho biết “Chúng tôi cũng có trong tay hai bức điện của Đại sứ quán Hoa Kỳ và thấy nội dung cuộc họp đã không được phản ánh trung thực, bởi lẽ Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng chưa hề có lời nào như thế (hoặc tương tự như thế), trong các cuộc gặp với John Negroponte và Scott Marciel cùng Đại sứ Michael Michalak.”
Thứ Ba 27/09/2011, Nguyễn Như Phong có đưa ra một bản dịch chưa cho biết nguồn từ đâu. Chính vì vậy người viết mới phải đính kèm nguyên văn Anh ngữ của tài liệu để bạn đọc tường. Ông Phong quen viết trên báo Công An nên chưa hiểu bạn đọc càng ngày càng khó tính không thể bịa chuyện tuyên truyền.
Ngay cả nếu các tài liệu ông Phong có được cũng do Wikileaks công bố thì ông Phong lại quên rằng cùng một cuộc họp biên bản có thể đã được cắt bớt những phần “tế nhị” để có thể phổ biến rộng rãi hơn. Việc làm của ông Phong chỉ tạo thêm sự chú ý của dư luận, nhất là chú ý từ Cơ Quan Tình Báo Bắc Kinh.
Sự kiện còn cho thấy Tướng Hưởng không chịu học hỏi từ Lê Duẩn. Theo một tài liệu do phía Trung cộng đưa ra có lần Lê Duẫn đã tranh cãi với Mao Trạch Đông. Ba tuần sau đó khi gặp Chu Ân Lai, Lê Duẩn đã đổ cho thông dịch viên dịch sai nên Duẫn đã hiểu lầm. Nếu ông Hưởng nói tiếng Anh thì cứ đổ cho tại Mỹ không hiểu ông. Dễ giải quyết như thế mà ông Hưởng lại nhờ đàn em lên tiếng đính chính.
Đính chính một mặt tạo chú ý, mặt khác chỉ rõ sự sợ hãi của Thủ Dũng và Tướng Hưởng. Không sợ sao được khi biết bao người đang mạnh như “trâu” đột ngột được “Đảng” cử hành đại lễ “Quốc Táng”. Thủ Dũng và Tướng Hưởng là hai hung thần của những người đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam . Họ ác với dân nhưng lại rất hèn với giặc.
Nhắc đến Lê Duẫn lại nhắc đến thời chiến tranh, từ 1965 tới 1968 có tổng cộng 327,000 quân Trung Cộng giả làm công nhân xây dựng để bảo vệ miền Bắc Việt Nam, để Bắc Việt có thể chuyển quân vào Nam. So với hôm nay, sự hiện diện của hằng triệu “công nhân” Tầu đang họat động rải rác trên tòan cõi Việt Nam. Đội quân này sẵn sàng nổ súng vào dân hay quân đội Việt Nam, khi những người này muốn đứng lên giải thể chế độ cộng sản. Xét ra công của Thủ Dũng với “Thiên Triều” vẫn lớn hơn nhiều so với tội bám Mỹ nêu trên.
Bauxit Tây Nguyên – Chủ Trương lớn của “Đảng”
Đến thế kỷ thứ 21, sự phát triển quốc gia đều dựa vào những thông tin chính xác nhờ đó mới có được những quyết định đúng đắn. Khổ nỗi cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục họat động như ngày nào trên hang Pắc Bó. Chủ Trương lớn của “Đảng” quyết định cả vận mệnh dân tộc vẫn chỉ có Bộ Chính Trị biết. Chả thế ngày 22/10/2008, tại Bắc Kinh Thủ Dũng đã âm thầm chuyển nhựơng Tây Nguyên cho Tàu.
Về nước mặc cho giới chuyên gia Việt Nam khuyên can. Nào là dự án chả lợi gì cho đất nứơc. Để dành cho con cháu mai sau khi kỹ thuật tiến bộ hơn có lợi hãy khai thác. Bây giờ thực hiện nó là phá hủy cả Tây Nguyên một phần văn hóa Việt Nam, là tiêu diệt các sắc tộc thiểu số một thành phần của dân tộc, là tiêu diệt môi trường sống của cả dân tộc, là đặt một trái bom bùn đỏ trên đầu dân tộc, là rước ngọai xâm về “dày mả tổ”, là …, là …, là …
Thủ Dũng như có đôi tai gỗ, đã ra công văn số 650/TTg-KTN, chỉ đạo các bộ ban ngành phối hợp triển khai dự án bauxite Tây Nguyên. Thủ Dũng cho biết đây là một Chủ Trương lớn của “Đảng”. Cần biết cũng trong năm 2008, vì tai hại của việc khai thác bauxite, Trung cộng đã đóng cửa tất cả các mỏ bauxite trên toàn cõi Trung Hoa. Thiếu quặng bauxite thì để bọn chư hầu Tấn Dũng cung cấp.
Thủ Dũng phải thực hiện Chủ Trương lớn của “Đảng” vì Tập Đòan Cộng sản cần Tiền ! Tiền ! Tiền !!!Thiếu ngọai tệ thâu được từ bán tài nguyên đất nứơc là thiếu tiền nuôi dưỡng các bộ máy “Đảng”, bộ máy công an, bộ máy Tư Bản đỏ … Nói trắng ra chế độ Cộng sản Việt Nam chỉ sống nhờ tiền bán đất, bán người, sống trên xương máu của nhân dân, của bao thế hệ ông cha đã hy sinh gìn giữ.
Trở lại với Bauxit Tây Nguyên, chỉ sau 6 tháng hoạt động, từ bể trộn của mỏ Tân Rai thuộc tỉnh Lâm Ðồng hóa chất đã rò rỉ, chảy lan ra ngoài làm ô nhiễm 200 ha đất chung quanh. Thêm vào đó các xe vận chuyển bauxite từ quặng về nhà máy khai thác cày nát tuyến đường dài 227 cây số, trong đó có quốc lộ 20 gây phẫn nộ cho dân cư trong vùng và những người thường xuyên sử dụng tuyến đường này.
So với Biển Đông, Quân Đội Trung cộng chỉ ở sát cạnh sừơn. Thời chiến tranh chỉ tập trung các tỉnh gần biên giới phía Bắc. Còn Tây Nguyên, địa điểm chiến lược của Việt Nam, đã có hằng chục ngàn “công nhân” phục vụ, đa số đều còn trẻ và vừa được “giải ngũ”. Cả sư đòan “Quân Đội Giải Phóng Trung Quốc” đang sẵn sàng “giải phóng” Việt Nam .
Đó mới chính là chủ trương lớn của “Đảng”. Ngày nay “Đảng” sợ thế lực thù địch tấn công nên mới mời “công nhân” Trung cộng sang trợ giúp bảo vệ chế độ. Thế nên lương của các “công nhân” này đều được trả nhiều lần cao hơn công nhân Việt làm cùng một công việc. Lẽ đương nhiên quặng Bauxite được khai thác là để trả công cho việc bảo hộ này.
Ngay cả đến báo chí ngọai quốc như tờ Financial Times ngày 06/05/2009 cũng cho rằng dự án Bauxite Tây Nguyên nói lên tính phụ thuộc của nhà cầm quyền Hà Nội với Trung cộng, và dự án này là một “món quà” của Thủ Dũng khi “triều kiến Bắc Kinh”.
Có nguồn tin cho rằng Nông Đức Mạnh đã nhận $300 triệu Mỹ Kim, còn Nguyễn Tấn Dũng nhận $150 triệu Mỹ Kim từ Chủ Trương lớn của “Đảng” cho khai thác Bauxit Tây Nguyên. Rõ ràng mạng sống của người Việt đã bị bọn Mạnh Dũng bán rẻ cho Tàu.
Luật Rừng Lại Hòan Luật Rừng
Sau ngày chiếm miền Nam, cộng sản từ Bắc vào hay từ rừng ra xem tài sản của dân miền Nam như chiến lợi phẩm. Người thì bị họ bắt bỏ tù. Nhà thì bị họ cướp. Nhiều chuyện tang thương đã xẩy đến khó mà quên được. Mà quên làm sao được khi nó vẫn xẩy ra và nó lại xẩy ra theo lệnh của Thủ Dũng.
Số là ngày 11-6-2009, Tiến sỹ Luật Học Cù Huy Hà Vũ đã gửi đơn kiện Thủ Dũng. Ông Vũ cho rằng việcThủ Dũng ký quyết định khai thác quặng bauxit ở Tây nguyên là vi phạm pháp luật Việt Nam, vi phạm các luật về bảo vệ môi trường, luật về bảo vệ di sản văn hóa.
Nhờ vụ này Thủ Dũng trở thành vị thủ tướng đầu tiên của Nhà nước Cộng sản bị khởi kiện vì tội vi hiến.Thế mà không cám ơn Tiến sỹ Vũ, Dũng lại đê tiện bắt người cướp nhà.
Việc ông Vũ bị Dũng bắt thì hầu như ai cũng biết. Chuyện ông Vũ bị Thủ Dũng cướp nhà thì bà Nguyễn Thị Dương Hà, vợ của ông Cù Huy Hà Vũ, chỉ mới được thông báo cách đây vài hôm. Mặc dù quyết định đã ký từ đầu tháng Chín năm 2010, hai tháng trước ngày ông Vũ bị bắt.
Chuyện bắt người cướp nhà chỉ còn có thể xẩy ra tại Việt Nam và dưới triều đại Thủ Dũng. Chuyện bắt người cướp nhà lần này lại xẩy ra ngay trung tâm Hà Nội để đón mừng sinh nhật thứ 1001.
Tòan Đảng chào Mừng “Quốc Khánh” Một Tháng Mười
Thấm thóat đã 1 năm kỷ niệm ngày “Ngàn Năm Thăng Long” 1/10/2010. Khai mạc ngày này cũng là Chủ trương lớn của “Đảng” nhằm Chào Mừng Quốc Khánh “Thiên Quốc”. Hằng chục tỷ Mỹ Kim đã được chi ra cho lễ “hội nhập” này. Sau Đại lễ Việt Nam trở thành một quốc gia ngập nợ và quịt nợ. Năm nay Hà Nội cũng tưng bừng đón mừng “Quốc Khánh” Trung Hoa.
Rời Hà Nội đến tỉnh Lào Cai, đảng bộ Thành Phố Lào Cai đã ra chỉ thị bắt dân phải treo “đèn lồng đỏ kiểu Trung Hoa” để đón mừng “Quốc Khánh” nứơc người. May thay người dân Lào Cai đã sớm nhận ra đây là một việc làm không phù hợp với văn hóa Việt Nam . Tỉnh Hòa Bình nghe đâu cũng sẽ tưng bừng mở Hội vào đầu tháng 10 này.
Vừa rồi khi Đới Bỉnh Quốc sang Việt Nam Tổng “Lú” Nguyễn Phú Trọng đã công khai phát biểu như sau: “Hai Đảng và Chính phủ có chung lý tưởng, có lợi ích chung, vận mệnh gắn liền với nhau, không có lý do gì không cố gắng thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển tốt đẹp“. Vui thì phải vui chung còn chết phải chết chung. Việc tòan “Đảng” chào mừng Quốc Khánh Trung Hoa vì thế đâu có gì là lạ mà phải làm như “mèo dấu c..”.
Càng nghĩ về Thủ Dũng và Tập Đòan Cộng sản lại càng có nhiều điều cần chia sẻ cùng bạn đọc. Bài tới người viết sẽ trình bày cùng bạn đề tài “Nguyễn Tấn Dũng Xây Dựng Nền Kinh Tế Khát Tiền”. Xin hẹn bạn vào bài tới.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
p/s:Các bài khác về Nguyễn Tấn Dũng xin tìm trên google.
Nguyễn Quang Duy, 9/2011, “Nguyễn Tấn Dũng than “Chỉ Tại Cái Công Hàm 1958 !!!
Nguyễn Quang Duy, 8/2011, “Nguyễn Tấn Dũng: Tập Đòan Tư Bản Đỏ
Nguyễn Quang Duy, 6/2011, “Phân Hóa Nội Bộ – Hoa Kỳ Chửa Đánh Đã Thắng








Sinh viên du học CHXHCN Việt Nam - Võ Thị Trúc Giang

* Một cuộc tiếp xúc ngắn với một sinh viên du học Việt Nam: Giây phút tâm tình ngắn ngủi cũng đủ làm tôi buồn

Tối thứ Tư nào tôi cũng có giờ đi học nhảy đầm trong Uni Sportschule, khóa rất đông sinh viên Đức lẫn ngoại quốc, gọi là ”nhảy đầm” cho nó sang nhưng đúng ra đó là một loại thể thao lướt chân theo điệu nhạc trầm bổng thật là thú vị, chúng tôi rất thích tập các loại thể thao này như học nhảy điệu Cha Cha Cha, Foxtrot hay theo điệu Valse chầm chậm, Bebop v...v...với những điệu xoay rất ư là ”lãng mạn".

Ra khỏi phòng tập người đổ mồ hôi lấm tấm, gặp cơn gió đêm tháng 11 mát lạnh vào da mặt, lá trên cành cây rơi xuống bay nhảy bên lề đường. Màn đêm trong ”làng Uni” êm đềm. Tôi gọi đây là làng University nghe hay hơn là khu đại học, vì nó to như một cái làng thu nhỏ, ai đi lang thang trong những dãy nhà này hay đang ngồi dưới ánh đèn chăm chú làm cái gì đó cũng mang nét thu hút, gây một hình ảnh sống động trong êm đềm của làng đại học tại nước Đức. Tôi có cảm tưởng cuộc sống của họ tựa như một thiên đường hạnh phúc. Trong ”làng Uni” này ngoài các môn khoa học kỹ thuật bạn còn có thể ghi danh học thêm các môn thể thao như học nhảy đầm, khóa dậy Internet (Power Point, Word, Latex, Exel, Photoshop), ngoài ra còn có dạy Tai Chi hay đánh kiếm, bơi, Jazz, Aerobic, nghĩa là muốn gì cũng có và giá cả tương trưng dành cho sinh viên cũng không đắt là bao. Ai có ý chí học hỏi là đầy đủ phương tiện.

Hễ tối thứ tư tôi không ăn cơm nhà mà vào quán cơm sinh viên ăn, tại nơi đây thỉnh thoảng tôi có dịp tiếp xúc với vài cô cậu sinh viên Việt Nam khác, người sinh trưởng và lớn lên bên này hay là sinh viên từ Việt Nam sang học xong rồi về cũng có. Tr. là một cậu đến từ Hà Nội người rất gầy, nhỏ, nhanh nhẹn hay cười, đang theo học Informatik (điện toán), nhận ra cậu là người Á Châu nên tôi cầm mâm cơm của mình theo sau và ngồi cùng bàn ăn với câu Tr. Thế là câu chuyện gẫu bắt đầu, xin kể lại quý thân hữu nghe:

- Em là Việt Nam hả? (vì rất có thể mình lầm với người Tàu hay Đại Hàn)

- Dạ vâng.

- Em sang đây học lâu chưa, ngành gì vậy?

- Em sang được bốn năm rưỡi rồi, tháng 3 sang năm em xong. Em học computer về ”phần mềm” ạ.

- Em sang năm về rồi kia à? Nhanh nhỉ. Ở đây em có đi đâu chơi không? Có bạn bè Đức nhiều không?

- Dạ không! (Lắc đầu nhăn mặt, ngập ngừng nói) em biết là thiếu sót nhưng ... em chỉ cắm cổ học thôi cô ạ.

- Trời sang đây những 5 năm mà không có quen ai cả sao, có coi truyền hình Đức không, hiểu hết các tin tức thế giới đang xảy ra gì không?

- Dạ không, em không coi TiVi, không có tiếp xúc với ai hết, chỉ quen độ năm sinh viên Việt trong khu đại học này thôi!

- Trời, vậy làm sao em hiểu người Đức họ sống như thế nào, suy nghĩ của họ ra sao! Phí phạm quá, sang du học phải len vào môi trường sống để học hỏi thực tế chứ, mai kia nhỡ có hãng Đức sang Việt Nam em leo lên chức giám đốc dễ như chơi. Phải cố học tiếng Đức cho nhiều vào.

- Cảm ơn cô có lời khuyên cháu, vâng, em biết nhưng ...!

- Thiếu người hướng dẫn hả?

Tr. gật gù im lặng, tôi hỏi tới:

- Em mỗi năm mỗi về phép hả? Học xong có muốn ở lại tìm việc không? Có người làm giấy gia hạn ở lại trong Uni làm dự án tiến sĩ đó.

- Dạ vâng em mỗi năm mỗi về ạ, em có người yêu chờ bên nhà nên không thích ở lại đâu. Xong Bachelor là em về. Học đến thế là đủ rồi ạ.

- Ừ học cao quá về Việt Nam mình thiếu phương tiện, thiếu máy móc cho nên chẳng tốt. Tôi cười thông cảm hỏi tiếp: Bố em ngày xưa làm ngành gì?

- Dạ bố em làm ”tên lửa” xưa có du học bên Liên Xô trước kia ạ.

Trố mắt ngạc nhiên trong đầu tưởng tượng ra đầu mũi tên thấm dầu phụt ra lửa bắn bằng cung gỗ hihi.... ai dè tên lửa cậu ấy nói có nghĩa là ”chế tạo hỏa tiễn”.

Tôi reo lên:”Ồ bố con đều giỏi, cha là nhà khoa học từng du học bên Liên Xô về hẳn thế em mới có điều kiện sang bên đây du học như thế. Em quả may mắn quá”. Suy nghĩ chút rồi tôi hỏi tiếp:”Em sang đây chắc đã có dịp nhìn thấy nhiều về đời sống Tây phương em có nguyện vọng gì để xây dựng một nước Việt Nam khá hơn không? Nhưng em lại không hiểu tiếng Đức nhiều thì làm sao ....??”

Gãi đầu ngập ngừng nói:

- Em nói và đọc hầu hết bằng tiếng Anh ạ! Em thấy rằng đất nước mình hiện nay đang làm rất tốt rồi, sao các cô chú cứ đòi hỏi Việt Nam phải làm nhanh hơn, tốt hơn, làm sao làm nổi.

- Đâu, cô có đòi hỏi làm nhanh hơn đâu. Cô chỉ muốn ở nhà có công bằng hơn chút xíu thôi mà. Em thử nghĩ bao nhiêu người được gửi sang ngoại quốc du học như các em? Và bao nhiêu phần trăm dân số của mình nghèo không có tiền trả học phí trường học, con gái bán bar làm điếm, bệnh tật không có tiền chữa.... Cô nghĩ nước mình độ 15 % là thành phần trí thức – như em - còn lại là 85 % ít học và nghèo. Em không thấy bất công sao?

Cậu trố mắt nhìn tôi nói chậm:

- Cô quan tâm tình hình đất nước nhỉ?

- Từng giây từng phút đó em trai! (bỗng dưng tôi gọi cậu bằng em trai ngọt sớt, vì cậu đáng tuổi con gái lớn của tui mà), con của cô hồi còn bé ở nhà sau buổi cơm trưa trước khi bật TiVi lên là phải có giờ Học Việt Ngữ, cô đã truyền cho các con mình tiếng mẹ đẻ và lòng yêu nước Việt, mặc dù là sinh trưởng bên này đó.

- Hay quá nhỉ, từ trước đến nay chúng cháu cứ tưởng những Việt Kiều rất quá khích với quá khứ, nên ....

- Ngại đến gần nói chuyện tâm tình đồng hương chứ gì?

- Dạ vâng, nhưng cô lại khác hẳn. Cháu thích như vậy hơn.

- Quá khích làm gì? Giờ này nếu ta còn phân chia thù hận thì bao giờ mới khá, chúng ta hãy nhìn vào hiện tại và tương lai thôi. Cho cô hỏi, cậu nghĩ thế nào về bọn Tàu xâm chiếm đất biển của ta?

- Ồ... sao lại gọi là”Bọn Tàu”? Đối với chúng cháu trong lối suy nghĩ không có Phe Nó và Phe Ta.... Cả văn hóa của mình là xuất xứ từ Trung Quốc nước mình không thể tách riêng ra khỏi Trung Quốc được!

-???????????? Ủa cậu là người Tàu hay Việt?

- Dạ, cháu là người Việt ạ.

- Người Việt mà chấp nhận ngang xương tất cả văn hóa, truyền thống cổ truyền Việt Nam là”của Tàu” ư?

- Chứ gì gì nữa mà cô cãi!?

- Vậy cậu chấp nhận Bọn Tàu Nó xâm chiếm vụ Trường Ss Hoàng Sa là chuyện hiển nhiên không cần phải lên tiếng phản đối sao?

- Vậy chứ Việt Nam mình nhỏ quá làm sao chống lại Trung Quốc to đùng sát bên, cháu hỏi cô? Ta làm thế nào để không có chiến tranh và mất nước xảy ra là hay rồi.

- Cô hiểu chứ, nước mình nhỏ bé Tàu nó muốn chiếm bất cứ lúc nào như đã chiếm Tây Tạng, chính vì thế nước mình mới đặt hy vọng vào những nhà trí thức tiến bộ của thế hế sau như các cháu đây. Cô thì dạy con yêu nước Việt học tiếng Việt trong thời gian lưu vong, còn các cháu về nước phải làm gì trong khả năng mình chớ.

- Cô ạ....chúng cháu chỉ có hy vọng lo cho bản thân cháu, nói cô đừng buồn, cháu chỉ lo học xong, ra trường về kiếm việc làm và lo cho gia đình. Thế là hết bổn phận công dân.

Tôi như bị rơi tõm vào cuối sân vận động âm u! Thất vọng làm tôi hết biết phải nói gì nữa rồi. Ta đặt hy vọng vào ai đây? Vào thành phần trí thức Việt Nam ư?? Sự nhồi sọ mang ân huệ của Tàu đã giúp miền Bắc thắng cuộc chiến tranh Nam Bắc. Ơn sủng ấy đã in sâu trong tâm khảm các em rồi. Còn tôi, tôi chạy theo khối Tự Do sao tôi không tin tưởng hoàn toàn vào Hoa Kỳ nhỉ? Thật thà mà nói tôi không tin Hoa kỳ vì họ đã bỏ rơi miền Nam Việt Nam. Hiện nay cho dù ngài tổng thống anh hùng nào lên đi nữa, chính sách của họ là ưu tiên cho đất nước, nhân dân của họ, quyền lợi của họ, nhưng Tàu đã làm gì cho nước Việt sao em sinh viên ấy lại đặt tin tưởng nơi Tàu như thế? Vì quyền lợi riêng tư ư? Em không nhìn thấy tràn lan thực phẩm của Tàu có pha hóa chất, dân Trung Quốc còn bị bịnh thì nói chi đến dân Việt mình, ngày nay Tàu còn đem mấy thứ sữa có chất Melamine ấy sang viện trợ cho trẻ em đói bên Phi châu nữa đó em không biết sao?

Trên trái đất này có trăm nghìn vấn nạn để giải quyết. Từ Iran, Afgahnistan, Israel, Nam Hàn Bắc Hàn, Nga và các xứ ở Âu châu....Khủng hoảng kinh tế không phải chỉ riêng nước nào bị ảnh hưởng nhiều hay ít mà là cả khối quốc gia trên thế giới bị lôi cuốn vào trong ấy, nên thế giới ngày nay phải tiến gần lại với nhau tập họp và tìm biện pháp giải quyết khó khăn chung. Ngài tổng thống Obama mới đắc cử ngày 04.11.08 này không thể nào đóng cửa chỉ lo chuyện quốc gia mình bỏ mặc những nơi khác, rút quân mình ra khỏi các vùng xôi đậu nơi mà người dân nơi ấy đang cần bảo vệ của Thế giới về Nhân quyền, về An ninh, xã hội, y tế, trường học được xây dựng từ đổ nát, những nơi bị bọn Taliban đàn áp, quyền phụ nữ bị chà đạp bất công. Sự toàn cầu hóa hiện nay mong san bằng cái nghèo giàu bất công trên thế giới này cũng là hành động thật tuyệt vời, em hiểu không?

Một câu của Tr. làm tôi suy nghĩ ”Làm sao ta có thể tách rời Việt Nam ra khỏi Trung quốc và đứng một mình được”. Ah thì ra em ấy nói nước Việt Nam cs ”của em” không thể nào tách ra khỏi ảnh hưởng khối cs Trung Quốc được, trong khi tôi đứng trong khối tự do nhưng tôi lại cũng là người Việt như em. Tai tôi nghe văng vẳng tiếng nhạc của trường đại học Đức giúp cho tôi vững tâm bền chí, trong khi phút tâm tình ngắn ngủi với cậu sinh viên du học từ Việt Nam sang làm cho tôi hoang mang không có lối thoát.


Cả hai chúng tôi rẽ đi về hai hướng dưới màn đêm.

No comments:

Post a Comment