Monday, May 11, 2015

Vô Cảm, Vô Cảm, tuyệt đối Vô Cảm


Ngô Nhân Dụng
Phải mất sáu tiếng đồng hồ một đoàn cấp cứu người Pháp và người Nepal cưa gỗ, đục tường và sàn nhà, mới kéo được anh Rishi Kanal, 28 tuổi, ra khỏi đống gạch ngói đổ nát, sau trận động đất, đưa nước uống và bơm dưỡng khí cho anh. Một cụ già 101 tuổi ở quận Nuwakot, phía Tây Bắc thủ đô Kathmandu được cứu; cụ nhịn đói, nhịn khát suốt bảy ngày sau khi động đất; cả làng bị xóa sạch.
Nhân viên một công ty Mỹ mang hai cái máy tìm kiếm bằng radar sóng ngắn qua, cứu được bốn người ở làng Chautara, họ bị vùi dưới hai lớp cao ốc sụp đổ chồng lên nhau. Cái máy Finder của NASA lần đầu tiên đem dùng trên trái đất, có thể dò biết hơi thở và nhịp tim đập của con người dưới sâu hàng chục thước. Ðoàn cấp cứu này gồm nhiều người quốc tịch Bỉ, Hòa Lan và Trung Quốc. Sau những vụ thiên tai, cảnh con người đi cứu lẫn nhau khiến chúng ta xúc động; cảm thấy tình nhân loại thật ấm áp. Nhưng chúng ta cũng rất buồn khi thấy những người hoàn toàn vô cảm trước nỗi thống khổ của đồng loại. Người Việt Nam thì không những buồn mà còn thấy xấu hổ, khi thấy trên mạng Internet quốc tế cảnh một đồng bào của mình hoàn toàn vô cảm. Trên website có hình nhiều du khách ngoại quốc đang đi cấp cứu các nạn nhân động đất, kèm theo bức hình một phụ nữ Việt Nam đang đứng chụp hình kỷ niệm giữa cảnh đổ nát. Cô có khuôn mặt rất xinh, miệng nở nụ cười hớn hở, tay đưa lên như chỉ cho mọi người thấy ngôi nhà bị sập cao như thế nào. Ðúng là một thái độ vô cảm. 
Ðiều đáng xấu hổ hơn, là cô này ở trong một phái đoàn hội Chữ Thập Ðỏ, sang Nepal trước đó mấy ngày để “nghiên cứu về động đất.” Chữ Thập Ðỏ, người miền Nam trước đây gọi là Hồng Thập Tự là một tổ chức cấp cứu. Tinh thần của các hội Hồng Thập Tự là cứu người, giúp người. Phải có tấm lòng mẫn cảm, thương xót mới làm việc cho những tổ chức như thế. Thái độ vô cảm càng không chấp nhận được. Trên website 9gag có hai tấm hình, lần lượt được chú thích cho dân mạng so sánh: A member of Redcross Vietnam” (Một thành viên Hội Chữ Thập Ðỏ Việt Nam) và “Other tourists” (Những du khách khác đang cùng dân địa phương tìm bới các đống gạch đổ nát). Nhưng không phải chỉ một mình cô gái này vô cảm. Cả đoàn cùng đi với cô cũng vậy. Ði học hỏi về việc phòng bị động đất, đối phó với động đất, đáng lẽ ra khi gặp cảnh động đất thật thì phải coi đây là một cơ hội học hỏi trên thực địa. Nhưng không. Gặp động đất, cả đoàn tìm cách kéo nhau về sớm. Về tới nhà, được dịp khoe khoang tài thành tích ăn mì gói và tài chạy chọt của mình, làm thế nào tìm được máy bay đi Quảng Châu rồi về Hà Nội! Chuyến đi Nepal được hội Hội Chữ Thập Ðỏ Na Uy tài trợ, tiền ăn ở hàng ngày đã lãnh rồi. Không biết họ có đem trả tiền cho người ta, hay mang về Hà Nội ăn tiêu cho sướng? Họ thanh minh rằng không có khả năng cấp cứu, không biết phong tục và ngôn ngữ địa phương nên đành về. Nhưng có hai người Việt Nam khác, nhân viên một hãng viễn thông đang ở Kathmandu lúc đó, họ không bỏ chạy. Họ tình nguyện vào bệnh viện giúp các công tác cứu thương, và đi hiến máu. Có ai cần biết nói tiếng địa phương đâu? Dân Việt Nam không vô cảm như mấy người Chữ Thập Ðỏ. Câu chuyện và hình ảnh này lên mạng, các công dân mạng ào lên “ném đá!” Dân mạng lại “ném đá” một lần nữa khi thấy cảnh người ta đưa xác một phi công tử nạn về nhà trong một cái túi xách tay! Ðó là di hài một thiếu tá phi công thiệt mạng trong chuyến bay huấn luyện tháng trước, được đưa về cho gia đình tại Hải Phòng. Trên thế giới, người ta rất kính trọng các thi hài, dù đó là thường dân. Thi hài các quân nhân tử nạn khi đang làm nhiệm vụ đều được đặt trong quan tài phủ Quốc kỳ, đưa đón với lễ nghi trang trọng và uy nghiêm. Tổng thống Obama ra tận sân bay tham dự buổi lễ phủ cờ và đón những binh lính tử trận về nhà
Nhưng ở Việt Nam thì di hài một sĩ quan không quân bị nhét trong một cái túi hành lý loại xách tay, mầu xanh trơn, cho hai người khiêng, một người đi trước bước theo kiểu diễn hành. Gia đình người chết không được mời tới nhận và đưa thi hài về nhà. Ðơn vị không quân của anh có cử đại diện đưa anh về với gia đình hay không? Tại sao người ta không đặt cái túi lên một miếng gỗ lớn hơn một chút, bốn người khiêng trông nó đỡ bệ rạc? Chẳng người nào thắp cho người chết một nén hương. Cũng chẳng thấy một đóa hoa, một băng tang màu đen hoặc mầu trắng, hay một tấm khăn sô phủ cho kín đáo! Cả đám tang là cái túi hành lý xách tay bằng plastic, nếu mở coi bên trong chắc thấy chữ Made in China! Tại sao không bỏ tiền ra mua một cái “hòm” gỗ cho nó phải phép? Tiền để đem xây biệt thự cho các quan bí thư tỉnh, bí thư xã không bớt đi một phần trăm ngàn làm việc từ thiện này được hay sao?  Nhiều công dân mạng trong nước đã ném đá. Những chữ diễn tả đúng nhất là “nhếch nhác, cẩu thả, vô cảm, phi văn hóa!” “Thà đừng làm gì cả. Làm kiểu nửa vời vậy rất lố bịch!” Một người còn thấy nhục quốc thể: “...rồi báo chí nước ngoài họ nhìn vào và họ đánh giá như thế nào đây? Thật quá đau lòng!” Trong bức hình được phổ biến trên mạng, có thấy hình một phụ nữ Tây phương tay không đi sau chừng dăm bước, mắt nhìn theo cái túi hành lý đang được hai người khiêng đi trước. Dáng điệu bà ta có vẻ chậm chạp, buồn rầu, bà phải cái biết túi hành lý xách tay đó chứa gì, vì các hành khách máy bay chắc đã được yêu cầu chờ cho “đám tang” rời máy bay trước tiên. Ai đã gây ra cái cảnh nhếch nhác, lố bịch, đau lòng này?

Quân đội? Bộ Quốc Phòng? Không quân? Thủ phạm là tất cả cái nhà nước phi nghĩa, vô luân, bệ rạc, nhếch nhác? Tất cả cái đảng đã tạo nên một xã hội lãnh đạm, vô cảm, không còn một giá trị nào được kính trọng nữa! Câu chuyện đám tang một sĩ quan và câu chuyện hội Chữ Thập Ðỏ đều cho thấy những người không còn biết xúc cảm nữa. Không xúc động trước cái chết của hơn bảy ngàn người Nepal, cũng không xúc động trước xác chết của một đồng đội. Cái gì đã đốt cháy tim óc những người đang ăn trên ngồi trốc trong xã hội Việt Nam; khiến cho họ không còn biết thương xót, không còn biết rung động trước nỗi khổ, trước cái chết của đồng loại? Nguồn gốc thái độ vô cảm là do một nếp suy nghĩ, nếp sống mà đảng Cộng Sản vẫn dạy dỗ đảng viên, tuyên truyền với mọi người hàng trăm năm nay. Mục tiêu của phong trào Cộng Sản là chiếm chính quyền để thay đổi loài người theo lối sống mới mà họ tưởng tượng ra tuy chưa biết nó sẽ thế nào. Họ bất chấp đạo nghĩa, nhất là thứ đạo nghĩa của “loài người cũ.” Họ cổ động một nền văn hóa đề cao “bạo lực cách mạng,” dập tắt những ngọn lửa lương tâm le lói trong lòng mỗi con người. Một biểu hiện của thứ văn hóa vô cảm đó mới được đưa lên mạng, là bức hình một cái búa. Cái búa này được đặt lên bệ một cách long trọng trong tủ kính, cái tủ lót khăn đỏ trưng bày trong một viện bảo tàng ở Việt Nam. Trước cái hộp kính là những hàng chữ lớn: BÚA, viết hoa, xuống dòng. Hai hàng dưới viết: “Ðồng chí Nguyễn Văn Thắng, huyện đội phó huyện Mỏ Cày (Bến Tre) dùng bổ chết 10 tên ác ôn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.” Dưới mấy hàng trên còn những dòng chữ dịch sang tiếng Mỹ: “HAMMER. WITH THIS, CAMARADE NGUYEN VAN THANG, DEPUTY CHIEF OF MO CAY MILITARY DISTRIS, BEN TRE PROVINCE, KILLED TO DEATTS A TOTAL OF 10 LOCAL TYRANTS” (dẫn nguyên văn, cả văn phạm và chính ta). Bản tiếng Anh nói rõ “local tyrants,” tức là “ác ôn địa phương;” nhưng không thấy những chữ “chống Mỹ cứu nước.” Một người dùng búa giết mười mạng, chắc không giết cùng một lúc, như trong một trận đánh, hai bên bắn giết nhau. Anh ta phải giết lần lượt từng người một, chứ giết hai người một lần đã khó rồi. Chỉ có cái búa mà giết mười người, chắc anh ta phải tính toán hành động bằng cách đánh lén, đánh ban đêm, giết người xong còn chạy thoát. Cần nhất, không ai nhìn thấy, không ai biết; vì nếu bị lộ sẽ khó trở lại giết những người khác. Mà lại toàn là người “địa phương,” tức là những người cùng làng, cùng xã với mình. Những nạn nhân của anh ta là ai? Là những người hàng xóm, những người chắc anh ta vẫn gặp gỡ hàng ngày. Giết người bằng cách tính toán lạnh lùng như vậy, phải được huấn luyện tinh thần tuyệt đối vô cảm. Anh huyện đội phó này đáng được gọi là Mười Búa, cao hơn tên Sáu Búa của Lê Ðức Thọ. Anh Mười Búa đã giết người chỉ bằng cái búa. Còn Sáu Búa có thể giết người bằng lời nói. Sau khi chiếm được miền Nam, Lê Ðức Thọ họp các đồng chí cộng sản của mình, những người đã từng bị bên Việt Nam Cộng Hòa bắt giam trong thời gian chiến tranh; có người đã vượt ngục nhiều lần, bị bắt, rồi lại vượt ngục. Sáu Búa gặp đám quân của mình, những cựu tù nhân đang chờ nghe lãnh tụ khen ngợi lòng cam đảm và tài chịu đòn trong hàng chục năm bị bắt giữ. Nhưng Sáu Búa chỉ tuyên bố: “Các đồng chí đều có vấn đề!” Có vấn đề, trong ngôn ngữ cộng sản, nghĩa là bị nghi ngờ, không đáng tin cậy nữa! Một câu nói đổ thùng nước lạnh lên những niềm hy vọng của các cựu tù nhân. Một thái độ tuyệt đối vô cảm. Chiến tranh là một điều bất đắc dĩ. Trong thời chiến tranh con người thành méo mó, tàn nhẫn, có thể biến thành vô cảm. Nhưng 40 năm sau khi chiến tranh chấm dứt mà còn đem trưng bày “Ðức Vô Cảm” trong hành động dùng búa đập chết mười đồng bào của mình, thì điều này mới thật ghê rợn! Thử nghĩ đến những em nhỏ sinh ra không biết chiến tranh thế nào, khi vào cái viện bảo tàng này, nhìn thấy cái búa dính máu đó. Các em sẽ cảm nghĩ những gì? Con cháu của cái anh huyện đội phó này có muốn nhìn thành tích của cha, ông họ hay không? Trưng bày một khí cụ giết người không ghê tay, thái độ vô cảm đã ăn sâu vào cốt tủy! Nhưng những người vô cảm thường không quan tâm đến chuyện giáo dục trẻ em. Ðối với đám trẻ con đó, cứ cho chúng leo dây qua sông đi học,Hàng chục học sinh đu dây cáp vượt sông dữ cứ để bố con chúng chui bao ni lông mà lội qua sông cũng được. Chúng đói hay no, quần áo lành hay rách, đến trường có học được cái gì không, “lãnh đạo” còn lo toan những “vấn đề vĩ mô” không có thời giờ biết tới. Cho nên mới có cái cảnh những trường tiểu học không có nhà vệ sinh. Trường Lộc Bảo, với hơn 200 học sinh là một thí dụ. Suốt bảy năm qua học sinh và các thầy cô trường Lộc Bảo phải tự lo lấy (xem tin báo Người Việt số này). “Tới giờ ra chơi nữ sinh phải chạy ra gần suối, nam sinh thì ra phía đồi cỏ, còn thầy cô phải xách xe chạy về nhà, cách trường ba cây số. Vì nhà dân chúng chung quanh cũng không ai có nhà vệ sinh để nhờ.” Phải nói, nước ta do một đám người hoàn toàn vô cảm cai trị từ trên xuống dưới. Mắt vô cảm, tai vô cảm, cái mũi cũng vô cảm. Tấm lòng thì đã hoàn toàn vô cảm từ lâu rồi! Những ông bà lãnh đạo Chữ Thập Ðỏ, những người phụ trách tang lễ, cho tới các ông bà hiệu trưởng cũng chỉ là nạn nhân của một nền văn hóa vô cảm do đảng Cộng Sản gieo rắc hơn nửa thế kỷ nay.

Ngô Nhân Dụng
http://www.nguoi-viet.com
--------------------------

Tâm tình 30/4 với ca sĩ Ái Vân Ca sĩ Ái Vân (ảnh Bùi Văn Phú).

Ngày 30/4/1975 chị đang ở đâu và làm gì?
Khi đó Vân đang ở Đông Hà. Từ đầu tháng 4/75, qua đài mọi người đều biết chiến sự đang hết sức sôi động. Suốt những năm chiến tranh thì mơ ước lớn nhất của mọi người miền Bắc là kết thúc cuộc chiến, nói theo từ hồi đấy là “giải phóng miền Nam”.
Khi đó, với những chiến thắng vang dội mỗi ngày, mọi người rất phấn kích, nghĩ là đích cuối sắp đến. Trong nhà trường mọi người chuẩn bị tinh thần cũng là để tiến vào Sài Gòn. Vân là sinh viên chỉ nghe biết vậy. Nhưng đến giữa tháng 4, nghe nói tiến vào Sài Gòn, ngoài quân sự thì công tác văn nghệ cũng hết sức quan trọng, cần sự tăng cường rất lớn, nên ở trường thanh nhạc có anh Quang Huy và Vân được ông Huỳnh Văn Tiểng chọn cho đi theo quân số của đài truyền hình để vào Sài Gòn.
Sáng 29/4 xe của đài truyền hình xuất phát từ 41 Bà Triệu, đi tức tốc ngày đêm đến chiều hôm sau vào đến Đông Hà thì nghe tin Sài Gòn được giải phóng rồi. Trên xe còn có hai mẹ con cô Lan Hương, xướng ngôn viên nổi tiếng người miền Nam. Lúc đó Vân cảm thấy háo hức, mong chờ ngày đó phải là ngày huy hoàng rạng rỡ đón mừng. Nhưng mà mình đi vào nơi phía bắc của miền Nam sao thấy tối quá và cảnh xe Phi Long, Phi Mã, xe lambretta, xích lô máy hỗn độn với người chạy vào, kẻ chạy đi. Mình thấy dư âm chiến tranh vẫn còn rõ nét.
Khi nào đoàn của chị vào đến Sài Gòn?
Sau mấy ngày đi cấp tốc, chiều 2/5 xe vào đến đài phát thanh Sài Gòn. Trưa đi vào đài truyền hình thấy trên đường Hồng Thập Tự đầy những vỏ đạn. Trước đó, khi xe vào đến xa lộ Đại Hàn đã thấy áo quần lính, giầy lính, thắt lưng bỏ lại. Những chiếc xe chật như nêm, trên nóc là những xe Honda. Đó là sự hoảng loạn, bề bộn của những ngày chiến tranh vừa dứt.
Cảm nhận của chị về Sài Gòn lúc bấy giờ?
Ca sĩ Ái Vân (ảnh Bùi Văn Phú)Ca sĩ Ái Vân (ảnh Bùi Văn Phú)
x
Ca sĩ Ái Vân (ảnh Bùi Văn Phú)
Ca sĩ Ái Vân (ảnh Bùi Văn Phú)
Trước đây cứ nghe nói đồng bào miền Nam cần sự giúp đỡ từ miền Bắc. Cho nên khi mình vào rất ngỡ ngàng. Vân ở Hà Nội nhỏ bé xinh xinh, vào Sài Gòn mình ngợp. Ra chợ Bến Thành thấy người dân khác hẳn, dù lúc đó người Sài Gòn không dám ăn diện như trước. Họ đón nhận mình với thái độ vui mừng một cách gượng gạo và có nghi ngại. Có người nói ủa sao cô này bộ đội, vì mình phải mặc đồng phục, mà sao không bị cô ấy rút móng tay nhỉ.
Nhìn cách người dân trang điểm, ăn nói nhẹ nhàng, dù không còn ai là lính nhưng trước đây nghe nói họ bặm trợn, hùng hổ thì khi mình thấy được là đi từ ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng khác. Sài Gòn nó hoa lệ mặc dù lúc đó là những ngày người ta ẩn mình, nhưng người ở đây vẫn có nét hết sức bình yên. Vân cho là mình bị ngộ nhận với thông tin lệch lạc.
Chị có thể nói về công tác lúc đó của chị là làm gì?
Trước đây cứ nghe nói đồng bào miền Nam cần sự giúp đỡ từ miền Bắc. Cho nên khi mình vào rất ngỡ ngàng. Vân ở Hà Nội nhỏ bé, vào Sài Gòn mình ngợp. Ra chợ Bến Thành thấy người dân khác hẳn, dù lúc đó người Sài Gòn không dám ăn diện như trước. Họ đón nhận mình với thái độ vui mừng một cách gượng gạo và nghi ngại. Có người nói ủa sao cô này bộ đội, vì mình phải mặc đồng phục, mà sao không bị cô ấy rút móng tay nhỉ.
Quân số của đài truyền hình lúc đó có ba lực lượng chính. Thứ nhất là từ trong R (Trung ương cục miền Nam) ra, thứ hai ngoài Bắc vào và thứ ba là công chức của chính quyền Sài Gòn lưu dụng.
Vân thuộc thành phần thứ tư là tăng cường. Khi vào mình nghĩ sẽ là xướng ngôn viên, nhưng với ba lực lượng như thế thì mình chẳng được làm gì cả. Một lần duy nhất được đọc tin, nhưng là đọc ngoài hình. Mình cảm thấy thất vọng đầy vơi. May gặp anh Chánh Trực đưa về làm với đoàn ca múa miền Nam, nhưng cũng vẫn là dự bị. Hát thì cũng chưa được solo, chỉ hát tốp ca. Có lần duy nhất khi lên Đà Lạt được hát solo vì hôm đó ca sĩ chính bị ốm. Đây là lần đầu tiên hát dân ca. Sau đó đi biểu diễn ở một số nơi như Long An, Bến Tre, Cần Thơ.
Có bà chị họ cho Vân chiếc quân gin với áo chẽn nên bị đoàn kiểm điểm. Rất chán mà không biết đi đâu, tiền không có, công việc không rõ, trong khi đang học dở dang, nên tháng 11/75 Vân và anh Quang Huy xin phép đoàn cho trở về bắc.
Về lại Hà Nội, Vân học tiếp nhạc và tốt nghiệp đại học thanh nhạc. Sau đó là diễn viên của đoàn, ăn lương tháng, thời đó không có cát-sê, nhưng có tiêu chuẩn bồi dưỡng như trứng, sữa, đường.
Chị đã theo đoàn văn nghệ Việt Nam đi biểu diễn nhiều lần ở nước ngoài, phải không thưa chị.
Ái Vân hát ở Havana. Hình từ báo Nhân Dân (ảnh Bùi Văn Phú)Ái Vân hát ở Havana. Hình từ báo Nhân Dân (ảnh Bùi Văn Phú)
x
Ái Vân hát ở Havana. Hình từ báo Nhân Dân (ảnh Bùi Văn Phú)
Ái Vân hát ở Havana. Hình từ báo Nhân Dân (ảnh Bùi Văn Phú)
Vân đã đi nhiều nước. Đông Đức 5 lần, Liên Xô 6 lần, Cuba 2 lần. Phần nhiều là tham gia biểu diễn quốc tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Có lần đi thi hát nhạc trữ tình với “Bài ca xây dựng” điệu valse và Vân được giải ở Đông Đức. Năm 1978 Vân đi Cuba là trong đoàn văn nghệ tham gia liên hoan thanh niên các nước xã hội chủ nghĩa, tổ chức cứ 4 năm một lần. Vân cũng đã biểu diễn ở Nhật, Thái Lan, Miến Điện. Đi Nhật hai lần là theo lời mời của Đảng Cộng sản Nhật và đài truyền hình NHK.
Trong một chuyến đi nước ngoài, chị đã quyết định không trở về Việt Nam. Nguyên do vì sao?
Tháng 1/1990 Vân qua Đông Đức học khóa đào tạo đạo diễn cho chương trình tạp kỹ. Lúc đó Tường Berlin đã đổ rồi. Việc được đi học rất khó khăn. Mai này viết hồi kí sẽ kể chi tiết. Tháng 2/1990 Vân quyết định chui tường để trở thành “tường nhân”. Vân ra đi vì những lí do hết sức cá nhân vì chuyện gia đình không giải quyết được. Anh ấy không cho Vân một con đường để giải quyết và lúc đó cuộc hôn nhân trở nên nguy hiểm đến mức có thể có khả năng xấu xảy ra. Tin từ nhà cho biết con đường trở về của mình càng ngày càng hẹp. Vân phải quyết định mặc dù rất đau lòng vì lúc đó ở nhà còn con trai mới 4 tuổi, cha thì già còn mẹ ốm nặng.
Rồi làm sao chị lại sang Hoa Kỳ định cư?
Sang Tây Đức một thời gian thì mình lập gia đình. Anh ấy người Đức gốc Việt, làm kĩ sư. Năm 1994 hãng của ông xã mở chi nhánh ở Mỹ, cử anh ấy qua làm đại diện nên đưa cả gia đình đi. Ở Mỹ, Vân cũng đi làm. Sau thời gian lâu ở Mỹ rồi có thẻ xanh, vào quốc tịch.
Chị là nghệ sĩ miền Bắc, chị biết về nhạc vàng, tức nhạc thời Việt Nam Cộng hòa, lần đầu là khi nào?
Tháng 1/1990 Vân qua Đông Đức học khóa đào tạo đạo diễn cho chương trình tạp kỹ.  Tháng 2/1990 Vân quyết định chui tường để trở thành “tường nhân”. Vân ra đi vì những lí do hết sức cá nhân vì chuyện gia đình không giải quyết được.
Lần đầu tiên là năm 1975, khi Vân về nhà tập thể của đoàn ca múa miền Nam ở 77-79 Hai Bà Trưng. Tự nhiên buổi trưa ngủ dậy nghe từ nhà hàng xóm: “Ngày mai em đi biển nhớ tên em gọi về…” do Khánh Ly hát, rồi “Chiều chưa đi màn đêm buông xuống…” với Bạch Yến. Những bài đó dội vào tai mình. Tâm trạng cô sinh viên nghèo, vào đây bơ vơ, nhớ nhà nên nghe rất ngấm. Từ trước đến giờ có bao giờ được nghe Khánh Ly, hay nghe nhạc Đoàn Chuẩn Từ Linh đâu.
Sau đó chị có dịp nào hát nhạc vàng không?
Lần đầu tiên là năm 1983 với bài “Chiếc lá cuối cùng” của nhạc sĩ Tuấn Khanh. Trước đó toàn hát nhạc Đức, nhạc Liên Xô vì ngoài Bắc có bao giờ hát những loại nhạc như thế đâu.
Chị lên sân khấu hát cho người Việt hải ngoại lần đầu ở đâu?
Ái Vân (thứ hai từ trái) và Thu Phương (phải) chụp ảnh kỉ niệm với khách hâm mộ (ảnh Bùi Văn Phú)Ái Vân (thứ hai từ trái) và Thu Phương (phải) chụp ảnh kỉ niệm với khách hâm mộ (ảnh Bùi Văn Phú)
x
Ái Vân (thứ hai từ trái) và Thu Phương (phải) chụp ảnh kỉ niệm với khách hâm mộ (ảnh Bùi Văn Phú)
Ái Vân (thứ hai từ trái) và Thu Phương (phải) chụp ảnh kỉ niệm với khách hâm mộ (ảnh Bùi Văn Phú)
Đó là lần hát cho Trung tâm Thúy Nga tổ chức ở Cerritos gần Los Angeles. Đây là một trải nghiệm hết sức tuyệt vời đối với mình vì lần đầu tiên diễn trên một sân khấu lớn cho khán giả Việt Nam tại hải ngoại và đã có quay video. Hôm đó Vân hát bài “Trăng sáng vườn chè” và có hợp ca một bài nữa với anh Elvis Phương, anh Duy Quang, với Phi Khanh. Đó là kỉ niệm thật đặc biệt.
Dường như ở hải ngoại chị hay hát dân ca?
Hòa nhập vào con đường văn nghệ bên này có khó khăn cho Vân, vì có bao giờ biết nhạc miền Nam đâu. Thậm chí Đoàn Chuẩn Từ Linh còn bị cấm tiệt, Văn Cao chỉ nhớ mỗi bài quốc ca. Vì thế con đường dễ nhất là những bài dân ca quen thuộc. Vân chọn dân ca cũng là nỗi lòng của mình nhớ về miền Bắc. Lúc mới sang Mỹ, Vân có trải nghiệm là chẳng hạn như áo tứ thân, nón quai thao rất là hiếm. Hai mươi năm trước thị trường băng nhạc hải ngoại thiếu mảng dân ca Bắc bộ, vì phần lớn người tị nạn ra đi từ miền Nam. Mà dân ca là sở trường của Vân, vì thế dân ca là cầu nối ngọt ngào giữa mình với khán giả hải ngoại.
Sau này Vân cũng hát nhạc Ngô Thụy Miên, Đức Huy và thấy hợp, còn những bài quá mềm thì với tám năm được đào tạo toàn hát nhạc cổ điển, dân ca nên không dám bước chân vào vì không phải sở trường của mình.
Sau một thời gian ở Mỹ, khi nào thì chị có cơ hội trở về Việt Nam?
Vân luôn muốn có cơ hội trở về trong những ngày đầu xa quê hương, vì còn con nhỏ, mẹ ốm và cha già và cả khán giả của mình nữa. Mình đã sống ở Việt Nam đến năm 37 tuổi mới ra đi vì thế tiếng gọi trở về hết sức mạnh đối với mình. Hơn nữa gia đình Vân ở Hà Nội gần 200 năm nên cội nguồn rất sâu. Nhưng tội vượt biên là tội rất nặng. Khi Vân “vượt tường” thì đó cũng là bức tường định mệnh ngăn cách mình với quê hương. Khi đó báo chí trong nước đã có những bài kết tội mình rất nặng. Vì thế nghĩ chuyện trở về là rất xa xôi. Rồi sau này tình hình dễ dàng hơn, cởi mở hơn. Đến năm 1998 Vân xin được visa.
Cảm nhận của chị khi trở về thăm quê hương sau tám năm xa cách như thế nào?
Rất là khác. Cái đầu tiên đập vào mắt mình là xây dựng. Hà Nội nho nhỏ, thân thuộc, xinh xắn, duyên dáng, trầm tư, ngay cả những nơi tan hoang vì chiến tranh giờ biến mất rồi. Nhà cao, khách sạn mọc lên trông hiện đại hơn. Đời sống sôi động hơn. Khi Vân trở về 36-38 Phố Huế thì bỡ ngỡ buồn vì những nhà hàng xóm, những phố của mình, trò chơi trẻ con không còn. Nhà cửa xây thêm. Kể cả con người nữa. Bây giờ mình về như là khách rồi, cảm thấy xa lạ không con phải là Hà Nội cho riêng mình nữa.
Có một dạo nghe nói chị đã mua nhà ở Sài Gòn, dự định về sống luôn ở Việt Nam, điều này có đúng không?
Bên này có nhiều người ra đi, không phải là “tường nhân” mà là “thuyền nhân”. Họ mất mát quá nhiều. Có những người mất hết. Nghe những mảnh đời của họ thì hiểu sự căm hận hoàn toàn có lý. Họ bị tù đày, những con người rất dễ thương lại bị gọi là “ác ôn”, “nợ máu”. Khi mình ở miền Bắc, thông tin lệch lạc, đến khi vào Nam mới thấy không phải như vậy...Như thế Vân cho là sự mất mát hay hận thù của họ là hoàn toàn hiểu được.
Cách đây hơn 10 năm, mình và ông xã đã nghĩ khi cả hai về hưu sẽ về Việt Nam ở. Dĩ nhiên Hà Nội thì không được vì đắt đỏ quá nên mình không có đất cắm dùi. Ba Vân ở Sài Gòn nên mình đã mua một cái nhà ở quận 12, hàng xóm của anh Elvis Phương. Nhà ngay sát bờ sông, có lục bình trôi đẹp lắm. Nhưng sau hai năm mua nhà, chưa ở đó đêm nào, nhà chưa hoàn thiện, lại do người nhà đứng tên. Rồi đường đi ngày càng kẹt xe, thấy không hợp lí nên sau hai năm đã bán rồi.
Chị còn ý định trong tương lai sẽ quay về sống ở quê cũ?
Về Việt Nam sống là để enjoy (hưởng) cuộc sống của quê hương mình, với gia đình, bạn bè, để thưởng thức cả những trò ăn quà vặt. Bây giờ những thứ đó còn chăng cũng hết sức mong manh. Bởi vì ra đường lúc nào cũng sợ cướp giật phải nhìn trước nhìn sau. Ra đường sợ xe tông. Mua gì, làm gì cũng sợ bị chặt chém, bị lừa. Thú vui ăn quà không còn vì mất vệ sinh, an toàn thực phẩm không có. Nếp sống văn hoá ngày càng đi xuống. Không dám nói là mình sẽ không bao giờ về nữa, nhưng mà nó nhạt dần đi vì ba Vân mất rồi, sợi dây ràng buộc với Việt Nam cũng lỏng lẻo hơn.
Lần ba Vân ốm đưa ông cụ vào bệnh viện mới thấy là kinh khủng, đến mức là Vân mong có về Việt Nam thì đừng bao giờ ốm để phải vào bệnh viện.
Còn con người có lối sống khư khư, cứ thu về mình thôi. Tính cộng đồng không có. Những thứ đó kết hợp lại trở thành cái không thoải mái khi trở về Việt Nam, cho nên Vân nghĩ ngày trở về nó trở nên xa vời.
Những lần trở về chị có hát trong nước không và có những khó khăn gì?
Những lần đầu rất khó khăn. Chuyện lên sân khấu là cần phép tắc, duyệt bài. Công an văn hoá có cho mình hát không. Rồi lại phải có giấy phép từng nơi. Có lần Vân đã hát ở Hà Nội, Sài Gòn, khi về tỉnh lại đòi xin giấy phép. Vì thế ý muốn trở về hát cho khán giả ở Việt Nam cho thỏa chí tang bồng giờ nó giảm đi rất nhiều. Sau này Vân chán không muốn hát nữa. Mấy năm nay mình cũng tự cho mình về hưu rồi và thấy khoẻ lắm, không còn căng thẳng nữa.
Ngày 30/4 lại đến, nhiều người nói về hòa giải dân tộc, chị có thể cho biết suy nghĩ của mình?
Ái Vân trong một lần diễn trên sân khấu ở California (ảnh Bùi Văn Phú)Ái Vân trong một lần diễn trên sân khấu ở California (ảnh Bùi Văn Phú)
x
Ái Vân trong một lần diễn trên sân khấu ở California (ảnh Bùi Văn Phú)
Ái Vân trong một lần diễn trên sân khấu ở California (ảnh Bùi Văn Phú)
Bên này có nhiều người ra đi, không phải là “tường nhân” mà là “thuyền nhân”. Họ mất mát quá nhiều. Có những người mất hết. Nghe những mảnh đời của họ thì hiểu sự căm hận hoàn toàn có lý. Họ bị tù đày, những con người rất dễ thương lại bị gọi là “ác ôn”, “nợ máu”. Khi mình ở miền Bắc, thông tin lệch lạc, đến khi vào Nam mới thấy không phải như vậy. Khi sang đây cũng thế, gặp những người sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hoà thì họ cũng dễ thương, có nhiều cái hay mình phải học. Như thế Vân cho là sự mất mát hay hận thù của họ là hoàn toàn hiểu được.
Rồi đối với người Việt hải ngoại, nhà nước vẫn có những phân biệt đối xử. Tại sao cũng là nghệ sĩ mà Hà Nội và Sài Gòn cũng khác nhau rồi. Vân được coi là nghệ sĩ Việt kiều chứ chả bao giờ được coi là nghệ sĩ trong nước cả. Vân không hiểu và vẫn có những bức xúc. Trong phép tắc cũng thế, họ coi mình là nghệ sĩ Việt kiều nên đã có những phân biệt đối xử.
Vân đã ở Đức sau khi Tường Berlin đổ. Về lại Đức, Vân thấy tủi thân vì nước Đức không tốn một viên đạn, không đổ một giọt máu mà người ta thống nhất Đông Tây để trở thành nước đứng đầu châu Âu. Còn Việt Nam 40 năm qua, phải nói là phú quí giật lùi, nhiều người vẫn lầm lũi mưu sinh.
Chị có ý kiến gì với lãnh đạo Việt Nam và người Việt hải ngoại?
Vân chỉ muốn có ý kiến với lãnh đạo Việt Nam thôi, chứ không có đề nghị gì cho người Việt hải ngoại. Trước tiên Việt Nam phải thay đổi ghê gớm lắm thì hữu xạ tự nhiên hương. Việt kiều nói chung ai cũng nghĩ về quê hương, dù ở Mỹ hay ở Đức, nhưng khi ra đường có ai hỏi mình từ đâu tới, mình rất ngập ngừng nói hai chữ Việt Nam vì có quá nhiều cái tiêu cực, từ giáo dục, xã hội, y tế mà những ai quan tâm đến Việt Nam đều thấy như thế. Vì vậy lãnh đạo Việt Nam hãy làm cho con dân Việt được hãnh diện về đất nước mình trước đã.
Gần đây có chuyện chặt cây xanh ở Hà Nội và chị cũng đã nói lên những bức xúc của mình. Tại sao chị quan tâm?
Ở Việt Nam từ lâu người dân đã chả tin gì lãnh đạo nói. Qua vụ cây xanh cứ đổ lỗi cho nhau. Vân lên tiếng, có người ở Hà Nội lại nói sao bà ở nước ngoài mà cứ bức xúc làm gì. Nếu người trong nước còn nói thế thì cây xanh còn chết nhiều. Nhiều người ngày nay trở nên vô cảm trước những ngang trái xảy ra chung quanh mình. Ai cũng thủ, lo khư khư giữ lấy những gì trong bốn bức tường nhà mình thôi. Vân chỉ muốn làm một người công dân có trách nhiệm.

Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.


-------------------------

QUÊ HƯƠNG : ĐI HAY VỀ ?


Ưu điểm

Với những ai đã từng học tập hoặc làm việc ở nước ngoài: với những kiến thức, phong cách làm việc đã tích lũy được ở môi trường phương Tây, khi về nước sẽ dễ dàng hơn trong việc tìm một công việc ở vị trí cao, nhiều trải nghiệm và thử thách hơn.

Với những ai có ý định làm riêng: với môi trường (hỗn độn) hiện tại của Việt Nam, sẽ có rất nhiều cơ hội cho những người đủ nhạy bén. Tôi có hân hạnh được quen một số bạn bè trang lứa đã và đang rất thành công ở Việt Nam, trong đó không ít bạn bè đã từng học ở nước ngoài và sau đó quay trở về Việt Nam lập nghiệp.
Ở nước ngoài, công việc không dễ kiếm, tôi may mắn có được công việc mình yêu thích khi vừa sang, tuy nhiên tôi cũng có biết những bạn bè (đã từng làm những vị trí quan trọng ở VN) nhưng khi sang không xin được việc. Bên này mức sống lại đắt đỏ nên chỉ một vài tháng không có việc thì phải xắn tay áo lên làm mọi việc, thậm chí cả những việc chân tay. (Xin nói rõ rằng điều đó không có gì là xấu).


Nói như vậy không có nghĩa là (về công việc) ở VN không có khuyết điểm:
Khuyết điểm
Chất lượng người lao động ở VN không cao (sự thật mất lòng nhưng vẫn là sự thật): ở VN mọi người làm việc thiếu kỷ luật, ít tôn trọng deadline, thiếu tinh thần trách nhiệm cho sản phẩm và công việc mình phụ trách. Nên nếu làm ở vị trí quản lý, bạn sẽ mệt mỏi hơn trong việc quản lý con người. Chưa kể nếu không cứng, quanh năm suốt tháng làm việc trong một môi trường như vậy sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến tính chuyên nghiệp của bạn.
Nếu làm ở vị trí quản lý/hoặc làm riêng: Tôi đã từng điều hành một số công ty (cho cả công ty nước ngoài và công ty riêng của mình), và cái mệt mỏi nhất không phải là những thử thách công việc mà là phải deal với những cái bất cập, những cái lệ đôi khi lớn hơn luật ở VN. Những công ty tôi đã điều hành chỉ ở quy mô nhỏ (dưới 50 người) nên tôi chỉ chia sẻ góc nhìn ở quy mô này (dù rằng tôi đã được biết những câu chuyện tương tự từ những công ty lớn hơn của bạn bè và người quen).
Nói một cách tóm tắt, ở VN muốn làm ăn yên ổn thì phải có quan hệ nhất định với nhà nước, mà bản thân tôi không thì không thích quan hệ với chính quyền ở VN. Tôi không có nhu cầu gần gũi gì với chính quyền, chỉ cần những bộ luật lệ rõ ràng và nhà nước cũng hành xử đúng luật để không phải quan hệ gì với họ.

Những điểm được khác
Trở về là sẽ được ăn món ăn VN, được nói tiếng nói quê hương mình.
Tôi vẫn yêu cái tiếng nói hồn hậu, chất phác của những người dân phương Nam quê tôi. Và đôi khi thèm đến nao lòng một thố cá kho, một tô canh chua nấu đúng vị. Những buổi sáng mùa đông đứng chờ xe điện ở ga, run lập cập mà nhớ về cái không khí mát dịu của những ngày xuân Sài Gòn.
Và sau cùng và cũng là điều lớn nhất, trở về là được ở gần gia đình cha mẹ anh em.
Vậy tại sao tôi vẫn chưa về? Và xung quanh bạn bè tôi thì ra đi mỗi ngày một đông?

Thời gian đầu ở Úc tôi thường tự hỏi mình liệu có đáng không? Đáng để bỏ hết tất cả và đến sống nơi xứ người này không? Nhiều lần tôi đã gần đi đến quyết định mua vé quay trở về. Nhưng rồi mỗi lần như vậy là mỗi lần tôi nhận được những tin tức từ bạn bè ở nhà làm tôi nhớ lại những lý do khiến tôi quyết tâm ra đi.
Tôi ra đi không phải vì lý do gì lớn lao (giáo dục hay văn hóa hay chính trị gì), chỉ là cái nhu cầu đơn giản nhất: tôi không còn thấy an toàn (về mặt vật lý) khi ở VN nữa.
Rất dễ để bạn có thể ngã xuống vì vô vàn lý do:

- Tai nạn giao thông.

- Đường phố đầy cướp giật.

- Công an kết hợp với giang hồ để hành hung người dân (chuyện có thật từ bạn tôi).

- Ăn uống, vệ sinh thực phẩm.


Hoặc thậm chí không có chuyện gì xảy ra, môi trường không khí ở VN cũng làm chúng ta bệnh định kỳ – thường là mỗi 3 tháng hoặc 6 tháng một lần.

Công an ăn nói mất dạy với người dân, phạt và ăn hối lộ trắng trợn vô tội vạ. Có bất kỳ việc gì liên quan đến công an thì càng làm mình sợ hơn là cảm giác được bảo vệ. Công an như một đám kền kền đúng nghĩa.

Quá nhiều lần bị trúng thực khi ăn thức ăn ngoài đường đã làm tôi không còn dám ăn những món yêu thích của mình ngoài đường nữa.

Ra đường thì bất kỳ thằng choai choai nào cũng có thể kiếm chuyện với mình, nếu muốn yên lành thì im lặng mà đi, hoặc xin lỗi nó.

Thậm chí để cái việc cỏn con là đi xem phim, 2 năm cuối ở VN tôi đã không còn đi xem phim nữa vì những sự bất lịch sự của những người xung quanh, mười lần như một.

Và còn vô vàn những lý do khác mà ai đã và đang sống ở VN đều có thể dễ dàng liệt kê ra.
Và khi đã ngã xuống rồi thì bệnh viện – là nơi chúng ta tìm đến để tìm sự trợ giúp – lại là nơi mang lại bực bội và trong nhiều trường hợp: nguy hiểm hơn.

Năm 2011, ba tôi bị tai nạn giao thông, người đụng bỏ chạy để ba tôi một mình trên đường, người qua lại không ai trợ giúp, cũng may ba tôi còn tỉnh nên gọi điện thoại về cho người thân được. Vô đến bệnh viện người ta để ba tôi nằm từ trưa đến tối vẫn không một ai quan tâm, ai là con đã từng ở trong hoàn cảnh tương tự, chạy quanh khắp bệnh viện gần như năn nỉ từng bác sĩ thì sẽ hiểu được cảm giác đó. Và cuối cùng người ta chụp hình và chuẩn đoán là chỉ cần bó bột là xong. Sau 2 tháng bó bột với tư thế sai hoàn toàn, gia đình quyết định chuyển sang bệnh viện tư (và sau đó phải sang Singapore) để mổ sắp xương lại. Bác sĩ ở Singapore nói rằng ba tôi bị rất nặng, nếu để chậm là có thể ba tôi không còn chân nữa.

Năm 2013, một lần nữa ba tôi nhập viện vì có vấn đề liên quan đến phổi, sau này mới biết đó chỉ là biến chứng của những năm tháng nằm dưới hầm trú trong chiến khu tránh B52 rải thảm bên trên. Vậy mà bác sĩ ở bệnh viện Phạm Ngọc Thạch (bệnh viện chuyên về phổi lớn nhất của miền Nam) bảo rằng ba tôi đã bị ung thư giai đoạn cuối, chỉ còn sống được vài tháng. Ai là người thân trong gia đình khi nhận được tin đó sẽ hiểu cảm giác như thế nào.
Rồi sau đó một thời gian họ lại báo rằng đó là do lao phổi và lên phác đồ điều trị, thuốc để chữa bệnh lao đã làm ba tôi từ 48kg xuống còn 34kg và yếu đến mức tưởng như không qua nổi. Cũng may có một người bác sĩ quen từ xa ghé thăm và lập tức đưa ba tôi về nhà và cho uống thuốc khác, sau đó ba tôi khá lên từ từ và hiện tại cảm ơn trời phật, đã khỏe lại.

Những trải nghiệm như vậy làm tôi nghĩ nếu chẳng may gia đình rơi vào những tình huống nguy hiểm đến tính mạng, với những loại bác sĩ như vậy trong bệnh viện thì biết trông chờ vào ai? Cảm giác bất lực tột cùng khi đứng giữa bệnh viện, khi mà công việc, sự nghiệp, tiền bạc không thể làm bất kỳ điều gì để bảo vệ gia đình. Tôi quyết định đi để tìm một nền tảng y tế tốt hơn cho gia đình, khi mà quê hương không còn là nơi an toàn để sống nữa.

Và đó chỉ là giọt nước làm tràn ly trong vô vàn giọt nước khác đã làm đầy ly nước:

Không ai! Không một ai muốn bỏ quê hương đất nước mình mà đi sống ăn nhờ ở đậu một đất nước khác. Do đó theo suy nghĩ của tôi, để các du học sinh, để những người đã ra đi quay trở về thì không phải chỉ là sửa tiêu đề của những bài viết kia, vì dù các em có tin, quay trở về rồi cũng sẽ đối diện với những sự thật diễn ra hàng ngày và rồi cũng sẽ lại tìm mọi cách để đi. Và thực tế tôi đã chứng kiến rất nhiều trường hợp quay trở về và sau đó lại đi.

Hôm rồi tôi có ngồi tâm sự với một người bạn, bạn ấy nói rằng: “Chỉ cần ở VN có an toàn và công bằng, hai chữ sao đơn giản mà khó quá”.
An toàn và công bằng! Chỉ cần có 2 chữ đó một cách tương đối (chứ không phải hoàn toàn trái ngược như hiện tại) thì dù có không cho về thì chúng tôi cũng tìm đường mà về.
Vì không đâu bằng được sống trên quê hương mình cả. Lặp lại lời người bạn: “Hai chữ đơn giản mà sao khó quá!”.


NGỌC HIẾU

No comments:

Post a Comment