Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam, về phương diện lịch sử, địa lý, hành chính và pháp lý; hai quần đảo này đều nằm trọn trên thềm lục địa mở rộng của VN và theo Luật Biển LHQ thì chủ quyền của nước ven biển đối với thềm lục địa là tuyệt đối. Trung-Cộng biết rõ điều này hơn ai hết vì nếu không, Trung-Cộng đâu cần phải dùng võ lực xâm chiếm Hoàng Sa Trường Sa, vừa vi phạm Hiến Chương LHQ và Công Pháp Quốc Tế, vừa sớm muộn gì cũng sẽ phải trả lời trước Toà Án Quốc Tế về hành vi xâm lược này. Mặt khác, nếu công hàm ngày 14/9/1958 Việt-Cộng giao Hoàng Sa Trường Sa cho Trung-Cộng mà có “giá trị pháp lý” thì Trung-Cộng cũng đã đem vấn đề chủ quyền hai quần đảo này ra trước Toà Án Quốc Tế rồi chứ đâu có để yên cho vài “tiểu quốc” dám “chiếm đóng” đảo, bãi của Trung-Cộng rồi đàm phán song phương với đa phương vào lúc mà “thiên triều” hung hăng điên cuồng và thèm muốn Biển Đông như lúc này?
Giới trí thức hay nghiên cứu đứng đắn Trung-Quốc cũng biết rõ công hàm 14/9/1958 Việt-Cộng là bất hợp pháp như Tiến Sĩ Lo Chi-Kin từng thú nhận: “Bắc Kinh không bao giờ dám đưa những tranh chấp về hải đảo tại Biển Đông ra trước các cơ quan trọng tài quốc tế.” [1] Giới cầm quyền ở Trung-Nam-Hải càng biết rõ như vậy nên mới phải thúc ép Hà Nội bầy ra việc phân định lại Vịnh Bắc Việt ký hiệp ước ngày 25/12/2000 khiến VN mất 20 ngàn km2 vùng Vịnh Bắc Việt, bao gồm cả Hoàng Sa. Nhưng công hàm 14/9/1958 thì vẫn vô hiệu mà hiệp ước 25/12/2000 thì phải dấu kín vì VN thua thiệt quá nhiều không dám công bố nên nhân việc LHQ cho mở rộng thềm lục địa ngoài 200 hải lý, Hà Nội đã nộp LHQ hai hồ sơ ngày 6 và 7/5/2009, với lý do mở rộng thềm lục địa VN nhưng thực ra là giới hạn ở 200 hải lý để gạt Hoàng Sa Trường Sa ra ngoài hải phận VN với ý đồ giao cho Trung-Cộng qua Luật Biển LHQ.
Trước và sau khi nộp hai hồ sơ cho LHQ, để che dấu gian ý và đánh lạc hướng dư luận, Hà Nội đã tung đủ thứ tin tức xung quanh vấn đề Biển Đông và tổ chức Hội Thảo, không ngoài mục đích tung hỏa mù để mọi người không chú ý tới hai cái hồ sơ vô cùng tai hại cho VN của Hà Nội. Ngày 10/12/2009, Hà Nội tổ chức Hội Thảo về Biển Đông ở Hà Nội và tuyên bố: “VN đã nộp báo cáo cho Ủy Ban Thềm Lục Địa để bảo vệ quyền của VN đối với thềm lục địa ngoài 200 hải lý.” [2] Sự thực trái ngược, theo học giả Vũ Hữu San, chuyên về Biển Đông: Nếu xem hải-đồ do Hà Nội vẽ để nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3/4 biển Hoàng Sa nằm trong hải phận Trung-quốc; VN chỉ còn 1 đảo độc nhất là Tri Tôn trong số trên 100 đảo của nhóm Hoàng Sa; 4/5 biển Trường Sa không còn trong hải phận VN; VN chỉ còn đảo Trường Sa nổi và 2 đảo chìm, trong số hơn 100 đảo nổi, chìm của nhóm Trường Sa.” Sau Hội Thảo Biển Đông ở Paris ngày 27/2/2010 không thành, Hà Nội lại vừa mới bày trỏ Hội Thảo Biển Đông ở Phidelaphia, Hoa Kỳ, với sự tiếp tay của một vài “Việt-kiều yêu nước” đến từ Âu-châu, nên không ai ngạc nhiên khi nhân vật chủ chốt của Hội Luận Philadelphia đã trắng trợn xuyên tạc lịch sử trên BBC: “Không thể nói chắc rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam!”
Như thế, việc “hiến đất dâng biển” cho Trung-Cộng để đền ơn và để được bảo kê cho việc toàn trị đất nước rõ ràng là chủ trương của Đảng CSVN từ hơn nửa thế kỷ nay. Chủ trương “bán nước cầu vinh” này hoàn toàn phù hợp với sách lược bành trướng của Đảng CSTH. Tập đoàn cầm quyền Hà Nội hiện nay đang làm nhiệm vụ hoàn tất hay “hợp pháp hoá” những gì hai Đảng đã thoả thuận ngầm hay ký kết bất hợp pháp mà thôi. Nói khác đi, Việt Nam sẽ mất Hoàng Sa Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt về tay Trung-Cộng qua Luật Biển LHQ nếu Việt-Cộng còn tiếp tục cầm quyền. Những gì xảy ra lâu nay xung quanh vấn đề Biển Đông đều chỉ là những hoả mù để Hà Nội và Bắc Kinh hoàn tất sách lược của chúng mà thôi.
Do đó, xin đừng thổi phồng quá đáng vai trò Hoa Kỳ ở Biển Đông, đặc biệt là sau tuyên bố của bà Hillary Clinton ở Hà Nội ngày 24/7/2010? Đừng quên Hoa Kỳ nhập cuộc trước hết vì quyền lợi của chính Hoa Kỳ! Quyền lợi thì Trung-Cộng sẽ sẵn sàng “chia xẻ” vì “của người phúc ta” và rốt cuộc chỉ VN là thua thiệt! Hay cho dù có “thực tâm” và vì những “gì gì” như bà Clinton đã nói thì liệu Hoa Kỳ [và khối ASEAN] sẽ làm được gì khi Hoa Kỳ đứng ngoài [vì không phải là thành viên Luật Biển LHQ], trong lúc Việt-Cộng và Trung-Cộng gần như “thao túng” Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa là cơ quan có thẩm quyền thông qua hai hồ sơ Hà Nội về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa và Vịnh Bắc Việt hay phần lớn Biển Đông?
Người viết tin rằng bài viết dưới đây sẽ chứng minh được những nhận xét trên đây.
Thông Cáo của LHQ
Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa LHQ [Ủy Ban] kết thúc khoá họp thứ 24 về Thềm Lục Địa “mở rộng” [Extended Continental Shelf] ngoài 200 hải lý tại trụ sở LHQ, New York, ngày 11/12/2009. Thông Cáo [3] hay bản tường trình rất dài của Ủy Ban [Statement of Commision CLCS/64] được phổ biến trên trang nhà “UNCLOS”, người viết xin tóm lược một số điều cần biết hay liên quan tới Biển Đông và Việt Nam dưới đây.
Ủy Ban cho biết đã nhận được 35 hồ sơ mới của 41 nước ven biển nộp cho khóa họp thứ 24, từ 10/8/2009 đến 11/9/2009. Tuy là khóa họp thứ 24 nhưng là khóa họp đầu tiên của Ủy Ban về thềm lục địa mở rộng, sau hạn kỳ nộp đơn 10 năm do LHQ qui định, tính từ 13/5/1999 đến 13/5/2009. Ủy Ban chưa giải quyết được gì về 35 hồ sơ mới này, trong đó có 2 hồ sơ của Hà Nội nộp ngày 6 và 7/5/2009.
Ủy Ban dành gần hết khoá họp để giải quyết 5 hồ sơ cũ [của Pháp, Barbados, Anh+North Ireland, Indonesia, Nhật] tồn đọng từ các khóa họp trước. Cả 5 hồ sơ này đều đã được các Tiểu Ban [Sub-Commission] thành lập từ các khóa họp cũ cứu xét và đề nghị khuyến cáo, nhưng Ủy Ban chỉ giải quyết dứt điểm được hồ sơ của Pháp. Bốn hồ sơ cũ còn lại, Ủy Ban có giải quyết được thì sớm nhất cũng là năm 2010 hay 2011.
Tuy nhiên, Ủy Ban đã nghe đại-diện 18 nước trình bầy về 15 hồ sơ mới xin “mở rộng” thềm lục địa, trong số này đại diện Hà Nội đã trình bầy về hồ sơ nộp ngày 6/5/2009 liên quan tới Nam Biển Đông và Trường Sa và hồ sơ ngày 7/5/2009 liên quan tới Bắc Biển Đông và Hoàng Sa và Vịnh Bắc Việt.
2. Về Thủ Tục Cứu Xét hồ sơ, muốn mở rộng thềm lục địa ngoài 200 hải lý, nước ven biển phải nộp hồ sơ cho Ủy Ban; hồ sơ gồm các bản đồ kỹ thuật với toạ độ và cách tính toạ độ để qui định đường ranh thềm lục địa ngoài 200 hải lý theo Luật Biển. Tổng Thư Ký LHQ phải thông báo bằng văn bản cho các nước hội viên Luật Biển khi nhận được hồ sơ và văn bản này cũng phải được phổ biến trên trang nhà UNCLOS.
Để giải quyết 1 hồ sơ, Ủy Ban trước hết phải chỉ định 1 Tiểu Ban gồm 7 người để xem xét. Tiểu Ban họp riêng khi xem xét hồ sơ và có thể yêu cầu nước nộp hồ sơ cung cấp thêm tài liệu hoặc thay đổi hồ sơ, nếu cần. Tiểu Ban phải cho nước liên hệ biết kết luận về hồ sơ của Tiểu Ban và phải đọc cho nước này biết các khuyến cáo [Recommendations] của Tiểu Ban trước khi đệ trình Ủy Ban.
Trong lúc Ủy Ban hội họp để duyệt xét các khuyến cáo do Tiểu Ban đệ trình, nước liên hệ có quyền trình bầy quan điểm của mình về khuyến cáo của Tiểu Ban. Ủy Ban cũng có thể yêu cầu nước liên hệ thay đổi một phần hay toàn bộ hồ sơ cho phù hợp với Luật Biển LHQ. Nếu Ủy Ban không có ý kiến khác thì khuyến cáo của Tiểu Ban sẽ là quyết định của Ủy Ban và quyết định này có giá trị chung quyết và ràng buộc nước liên hệ.
Ủy Ban hiện nay do Đại Hội Đồng các nước hội viên Luật Biển bầu ra ngày 15/6/2007, gồm 21 ủy viên, với nhiệm kỳ 5 năm, từ 16/6/2007 đến 15/6/2012. Như thế, Ủy Ban chỉ có thể thành lập tối đa 3 Tiểu Ban; do đó việc giải quyết hồ sơ rất chậm, thường mất nhiều năm. Hồ sơ của Brazil nộp ngày 17/5/2004, Ủy Ban giải quyết ngày 9/4/2008, mất 4 năm; hồ sơ Barbados nộp ngày 8/5/2008, Ủy Ban hẹn sẽ giải quyết vào năm 2010; hồ sơ Cuba nộp ngày 1/6/2009, Ủy Ban quyết định năm 2030 mới giải quyết, tức 20 năm nữa.
Như thế, nếu không có gì đặc biệt xảy ra, hai hồ sơ của Hà Nội có được Ủy Ban giải quyết cũng phải 5, 7 năm nữa, thời gian đủ để Trung-Cộng xây dựng Hoàng Sa, Trường Sa thành các căn cứ đồ xộ và rất có thể còn trở thành các địa điểm du lịch quốc tế, đặt mọi việc vào “sự đã rồi” hay “thực tế lịch sử” rất khó giải quyết cho dù khi đó công lý có đứng về phía VN hậu cộng sản.
4. Tóm lại, Hà Nội ở lợi thế cầm quyền và hội viên Luật Biển LHQ nên đã được Ủy Ban thông qua hai hồ sơ bước đầu và Hà Nội cũng có quyền hay rất có thể đã sửa đổi hay thậm chí thay đổi toàn bộ hồ sơ sau khi nộp [nên mới được cứu xét dù bị phản đối lúc đầu]. Trong số 21 thành viên của Ủy Ban đương nhiệm [và quyền hành còn kéo dài tới năm 2012] có đại diện của Nga, Trung Cộng và Bắc Hàn, là một lợi thế khác của Hà Nội. Hà Nội biết rất rõ những điều trên đây và đang khai thác tối đa để hoàn tất những gì hai Đảng CS này đã thỏa thuận ngầm từ bao năm nay, cụ thể là Hà Nội đang toan tính bàn giao Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh qua chính Luật Biển LHQ.
Luật Biển LHQ và Biển Đông
Để có một nhận định chính xác về 2 hồ sơ của Hà Nội, trước hết cần lưu ý một số điều sau đây:
Ngày 13/5/2009 là hạn kỳ chót để các nước ven biển nộp hồ sơ mở rộng thềm lục điạ đến tối đa 350 hải lý theo Luật Biển LHQ, không phải là ngày chót để xác định Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý.
Việc Hà Nội bỏ phí suốt 10 năm [từ 13/5/1999 đến 7/5/2009] và chỉ còn vài ngày là hết hạn mới nộp 2 hồ sơ là một dấu hiệu cần phải lưu ý.
Ai cũng biết hiện nay Đảng CSVN hoàn toàn lệ thuộc vào Đảng CSTH; do đó nếu không có sự đồng ý hay dàn dựng của Bắc Kinh thì Hà Nội không khi nào dám nộp hồ sơ.
Theo Luật Biển LHQ, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế rộng 200 hải lý thuộc chủ quyền tuyệt đối và đương nhiên của các nước ven biển, không cần phải đăng ký.
Nếu xảy ra tranh chấp ở vùng này thì có thể nhờ Toà Án Quốc Tế Hamburg hay Toà Án Quốc Tế La Hague phân xử hoặc đưa ra trước Hội Đồng Bảo An LHQ nếu có xâm lăng.
Hà Nội ký Luật Biển ngày 10/12/1982, phê chuẩn ngày 25/7/1994, tức rất sớm tất biết rõ như trên. Khi Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý, bắn giết ngư dân VN hành nghề hợp pháp trong vùng và xâm lăng Trường Sa, Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước các cơ quan thẩm quyền để phân xử, trừ khi đã thỏa thuận ngầm với Bắc Kinh nên Trung Cộng mới lộng hành như vậy.
Luật Biển LHQ rất phức tạp, ngoài 320 điều khoản, 9 phụ bản, còn có những thoả thuận riêng. Việc gì Luật Biển LHQ không qui định thì giải quyết theo tập tục và qui tắc tổng quát của Luật Quốc Tế.
Biển Đông rộng gần 1 triệu 100 ngàn hải lý vuông, Vịnh Bắc Việt chiếm hơn 1/3 diện tích Biển Đông, VN nằm sát bên Biển Đông và bờ biển dài 3,260 km, trải qua 13 vĩ độ, từ vĩ độ 21 N đến vĩ độ 8 N.
Vì bờ biển VN rất dài [so với diện tích đất liền] nên Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý của VN có diện tích gần gấp 2 diện tích 329,600 km2 đất liền.
Nếu Thềm Lục Địa VN mở rộng ra 350 hải lý theo qui định của Luật Biển LHQ thì hải phận VN [rộng gấp 4 lần đất liền và] sẽ bao gồm luôn Hoàng Sa Trường Sa vì khi đó hai nhóm đảo này nằm gần trọn trên Thềm Lục Địa “mở rộng” 350 hải lý của VN.
Hai nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ có một phần nhỏ nằm cách bờ biển VN 200 hải lý, hầu hết các đảo của hai nhóm này đều nằm rất xa ngoài khơi, có nơi cách bờ biển VN tới 400 hải lý. Hà Nội biết rõ điều này nên việc không xin mở rộng thềm lục địa VN ra 350 hải lý là phải có ý đồ? Phải chăng đã đến lúc Bắc Kinh tăng tốc chiếm Biển Đông và buộc Hà Nội phải “hợp pháp hóa” những gì hai đảng CS đã thoả thuận ngầm từ lâu, trong đó hiệp ước về Vịnh Bắc Việt 25/12/2000 là mục tiêu chính?
Hồ sơ ngày 6/5/2009 của Hà Nội và Trường Sa? [4]
Ngày 13/5/2009 là ngày chót để nộp hồ sơ về Thềm Lục Địa “mở rộng” [Extended Continental Shelf] ra ngoài 200 hải lý và đến tối đa 350 hải lý mà VN có đầy đủ điều kiện theo Luật Biển để được hưởng, không phải để đăng ký Vùng Đặc Quyền Kinh Tế [Exclusive Economic Zone] 200 hải lý. [5] [6]
Theo Luật Biển, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý là vùng biển mà các nước ven biển đương nhiên được hưởng, không phải đăng ký. Thế nhưng, hồ sơ ngày 6/5/2009 của Hà Nội không nhữ ng không xin mở rộng thềm lục địa mà còn giới hạn hải phận VN ở mức 200 hải lý và cố ý gạt nhóm đảo Trường Sa ra ngoài thềm lục địa VN.
[Bản đồ LHQ về Chiều Rộng các Vùng Biển]
[Bản đồ ở hồ sơ ngày 6/5/2009 của Hà Nội]
2. Vẫn theo Luật Biển, Ủy Ban sẽ không cứu xét nếu hồ sơ có sự phản đối hay tranh chấp. Hai hồ sơ của Hà Nội đều bị Trung Cộng và Phi Luật Tân phản đối nhưng vẫn được Ủy Ban cứu xét và rất có khả năng sẽ được Ủy Ban thông qua. Vì sao? Đây chính là “kẽ hở” của Luật Biển LHQ qua ‘Thủ Tục Cứu Xét” hồ sơ [được tóm lược trên đây] mà cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh đều đã nhận ra và lợi dụng nên mới có việc Hà Nội “dám” nộp hồ sơ về Biển Đông cho LHQ, tức “quốc tế hoá” hay “pháp lý hoá” là những “khắc tinh” đối với Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông xưa nay.
Trung Cộng ký Luật Biển LHQ ngày 10/12/1982 và phê chuẩn ngày 7/6/1996 nhưng chưa bao giờ tôn trọng Luật Biển LHQ. Trung Cộng còn tự ban hành Luật Biển riêng và bản đồ lưỡi bò chiếm 80% Biển Đông, bất chấp qui định của Luật Biển.
Bản đồ lưỡi bò lấn sát bờ biển VN, có nơi chỉ cách bờ biển VN 40 hải lý, chạy dài xuống tận đảo Natuma, Nam Dương, tức cách xa lục địa Trung Hoa khoảng 1000 hải lý, trong lúc Luật Biển qui định Thềm Lục Địa mở rộng không được qúa 350 hải lý.
Trung Cộng không nộp hồ sơ cho Ủy Ban là cơ quan được ủy nhiệm về vấn đề thềm lục địa mở rộng và chỉ cho đại diện tại LHQ gửi công hàm ngày 8/5/2009 cho Tổng Thư Ký LHQ để yêu cầu Ủy Ban không cứu xét hồ sơ của VN mà thôi. Kèm với công hàm là bản đồ lưỡi bò vì Trung Cộng biết chắc rằng nếu chính thức gửi cho Uỷ Ban thì sẽ bị bác bỏ vì cái bản đồ quái đản này không theo một qui tắc nào của Luật Biển LHQ cả.
[Bản đồ “lưỡi bò” của Trung-Cộng]
Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa không có thẩm quyền phân định ranh giới biển. Nguyên tắc của Uỷ Ban là khuyến khích các nước liên hệ tự giải quyết việc phân ranh với nhau. Trong suốt tiến trình giải quyết một hồ sơ về thềm lục địa, Uỷ Ban luôn luôn phải tham khảo ý kiến của các nước liên hệ [như đã trình bầy trong phần Thủ Tục Cứu Xét Hồ Sơ, ở trên]. Nếu có tranh chấp giữa 2 hay nhiều nước, Uỷ Ban có thể không chấp thuận hồ sơ của cả 2 hay nhiều nước.
Ngoài ra, tuy các nước liên hệ còn có quyền đưa vấn đề ra trước Toà Án Quốc Tế, nhưng đưa ra Toà Án Quốc Tế La Hague [1945] thì cũng như không, chẳng giải quyết được gì vì theo quy chế của Toà này thì hai bên tranh tụng có quyền “không thi hành” phán quyết của Toà dù chính họ nhờ Toà phân xử. Trái lại, phán quyết của Toà Án Quốc Tế Hamburg [1996] chuyên về Luật Biển có gía trị chung quyết và các bên tranh tụng phải chấp hành. Hà Nội có dám tiến tới hay không? Điều này rất khó xảy ra lúc này vì ai cũng biết đảng CSVN hiện nay hoàn toàn lệ thuộc đảng CSTH. Bắc Kinh bảo sao thì Hà Nội cúi đầu làm vậy.
Hồ sơ ngày 7/5/2009 của Hà Nội và Hoàng Sa? [7]
1. Ngày 7/5/2009, Hà Nội nộp Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa hồ sơ liên quan đến phía Bắc Biển Đông, tức liên quan đến Vịnh Bắc Việt và quần đảo Hoàng Sa. Tuy lời mở đầu hồ sơ này có nói Hoàng Sa và Trường Sa là của VN và nói tới việc “mở rộng” Thềm Lục Điạ VN ra ngoài 200 hải lý nhưng phần chính văn bản thì lờ đi
[Bản đồ trong hồ sơ Hà Nội nộp LHQ ngày 7/5/2009]
không đề cập gì tới Hoàng Sa nữa và điều quan trọng là bản đồ kỹ thuật kèm theo hồ sơ thì đường ranh 200 hải lý đột ngột dừng lại ở vĩ độ 15 N khi vừa đụng tới nhóm đảo Hoàng Sa, với lý do vùng trên vĩ độ 15 N này đã “được giải quyết” giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Đường ranh 200 hải lý này cũng được vẽ không chính xác; Hà Nội cố ý vẽ đường ranh này nhô lên tận vĩ độ 16 N, trong lúc theo hồ sơ viết thì đường ranh này dừng lại ở vĩ độ 15 N 067, tức chỉ nhô khỏi vĩ độ 15 N một chút, chứ không thể tới vĩ độ 16 N được.
Vùng biển Hà Nội xin “mở rộng” ra ngoài 200 hải lý trong hồ sơ 7/5/2009 có hình tam giác ngược, đỉnh nhọn ở phía dưới [ở vĩ độ 10 N 798], cạnh đáy hơi nghiêng nằm chếch ngang phía trên [cạnh phía Đông có đỉnh ở vĩ độ 15 N 067, cạnh phía Tây có đỉnh ở vĩ độ 15 N 200].
Đỉnh hình tam giác ngược này cách xa quần đảo Trường Sa như cố tránh đụng nhóm đảo Trường Sa, cạnh đáy nằm chếch ngang ở phía trên khi chớm đụng nhóm đảo Hoàng Sa là dừng lại, trong lúc nhóm đảo Hoàng sa trải dài từ vĩ độ 15 N lên hết vĩ độ 17 N.
Rõ ràng là Hà Nội cố ý gạt cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa ra ngoài vùng biển hình tam giác ngược mà Hà Nội nói là xin mở rộng. Hay nói khác đi, Hà Nội có xin mở rộng thềm lục địa VN ra ngoài 200 hải lý một chút [qua hồ sơ ngày 7/5/2000], nhưng vùng biển xin mở rộng hình tam giác ngược này chỉ là một vùng nước biển, dưới tránh đụng Trường Sa, trên né chạm Hoàng Sa; tức chẳng ảnh hưởng gì tới hai quần đảo này hay có đụng chạm đôi chút đến nhóm Trường Sa thì chỉ là vài đụn hay đá rất ít giá trị.
Đến đây, xin được mượn lời của học giả Vũ Hữu San, chuyên về Biển Đông, để kết luận phần phân tích hai hồ sơ Hà Nội nộp LHQ ngày 6 và 7/5/2009: “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hải-đồ nộp LHQ. Dân chúng VN đừng bao giờ nghe chúng nói, hãy nhìn những gì chúng làm. Nếu xem hải-đồ do Hà Nội vẽ để nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3/4 biển Hoàng Sa nằm trong hải phận Trung-quốc; VN chỉ còn 1 đảo độc nhất là Tri Tôn trong số trên 100 đảo của nhóm Hoàng Sa; 4/5 biển Trường Sa không còn trong hải phận VN; VN chỉ còn đảo Trường Sa nổi và 2 đảo chìm, trong số hơn 100 đảo nổi, chìm của nhóm Trường Sa. Hà Nội đã công khai vẽ hải-đồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, Việt Nam cãi gì ngược lại về hải phận cũng không được. Hà Nội tuyên bố sẽ tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Biển Đông và trong thời gian sắp tới, hai bên “cùng bàn bạc, đàm phán, phân định biên giới biển. Khi đó, Trung Quốc sẽ dùng hải-đồ mà Việt Nam đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!”
Thềm Lục Địa với Hoàng Sa và Trường Sa?
1. Tại hội nghị chuyên đề về Biển Đông ở Hà Nội ngày 10/11/2009, Vụ-trưởng Ban Biên-giới Nguyễn Duy Chiến tuyên bố: “Việc Ủy Ban Thềm Lục Địa xem xét báo cáo [NT: tức hai hồ sơ của Hà Nội] không ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền biển đảo.” Nguyễn Duy Chiến không hiểu hay bóp méo Luật Biển như Lê Công Phụng khi ký hiệp định 25/12/2000 hay nói dối như Vũ Dũng, một khác thứ trưởng của Hà Nội? [8]
Hai hồ sơ Hà Nội nộp LHQ chẳng những trước mắt mất Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt qua Luật Biển mà hậu qủa tất yếu là rồi đây Trung Cộng có thể thôn tính VN dễ dàng bất cứ lúc nào khi đã khống chế được phía Đông VN là điều ai cũng thấy! Quyền lợi cấp thiết và sinh tử của VN ở đây rõ ràng là mở rộng thềm lục địa ra 350 hải lý mà VN có đủ điều kiện theo Luật Biển để được hưởng vì nếu thềm lục địa VN được mở rộng ra 350 hải lý thì Hoàng Sa Trường Sa sẽ nằm gọn trên thềm lục điạ VN. Theo Điều 77 Luật Biển, quyền của các nước ven biển đối với thềm lục địa là một quyền tuyệt đối để thăm dò và khai thác dầu khí và như thế liệu các công ty dầu khí quốc tế có dám ký hợp đồng hàng chục tỷ với Trung Cộng để khai thác dầu khí ở vùng biển được LHQ xác định thuộc độc quyền khai thác của VN không?
Thế nhưng Hà Nội lại xác định thềm lục địa VN chỉ 200 hải lý; tức gạt vùng biển Hoàng Sa Trường Sa ra ngoải thềm lục địa VN, gián tiếp gạt Hoàng Sa Trường vào trong hải phận hay chu vi bản đồ lưỡi bò Trung Cộng. Về mặt luật pháp, đây là một hành vi “chuyển nhượng lãnh thổ quốc gia” bất hợp pháp ngoại bang; luật pháp quốc gia xem tội này là “tội phản quốc” và luật pháp quốc tế hiện nay coi là “tội lạm quyền” và liệt vào loại tội ác nghiêm trọng. [9]
Âm mưu dâng Hoàng Sa Trường Sa cho ngoại bang của đảng CSVN lộ rõ hơn nữa khi đại diện Hà Nội vừa tuyên bố “sẽ tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Biển Đông” và trong thời gian sắp tới “2 bên cùng bàn bạc, đàm phán, phân định biên giới trên biển.” Hai bên sẽ đàm phán thế nào thì vụ đàm phán 10 năm trước với hiệp ước 25/12/2000 về Vịnh Bắc Việt đủ để biết trước hậu quả của đàm phán song phương của Hà Nội với Bắc Kinh.
10 năm trước, Nhật Báo Nhân Dân Bắc Kinh của Trung Cộng đã hoan hỉ ghi lại kết quả về đàm phán: “Hải Nam là tỉnh nhỏ nhất của TH, nhưng sở hữu tới 2 triệu 200 ngàn km2 Vùng Đặc Quyền Kinh Tế” và -10 năm trước- học gỉa Vũ Hữu San kêu lên: “Chỉ một hòn đảo Hải Nam thôi, TH đã chiếm phần lớn Biển Đông... Làm sao VN còn đầy đủ sức lực cho cuộc thương thảo nhiều lần quan trọng hơn về Trường Sa Hoàng Sa cũng như toàn thể chủ quyền Biển Đông sau này.”
Nói rõ hơn, qua thương thảo 10 năm trước trong việc phân định lại Vịnh Bắc Việt, Hà Nội đã dâng cho Bắc Kinh khoảng 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt, đã để cho Bắc Kinh lấy bằng hết vùng thủy tra thạch ở cửa sông Hồng, nơi có tiềm năng dầu khí, và để cho Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế phía Bắc VN, có nơi chỉ còn cách bờ biển VN có 40 hải lý.
Nay, qua 2 hồ sơ Hà Nội nộp LHQ, hậu quả còn tệ hại vô cùng vì chưa bước vào thương thảo tay đôi với Bắc Kinh mà Hà Nội đã tự “trói miệng” hay chịu mất trước, khi xác nhận với LHQ là Thềm Lục Địa hay Vùng Đặc Quyền Kinh Tế chỉ có 200 hải lý, tức Hoàng Sa Trường Sa nằm ngoài hải phận VN, tức “không chắc” là của VN [như “luận điệu” của TS Vũ Quang Việt trong Hội Thảo Biển Đông ở Phidelaphia và trên BBC cuối tháng 7/2010: “Không thể nói chắc rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của VN.”]
Hà Nội biết rõ hơn ai hết Hoàng Sa Trường Sa là của VN với đầy đủ bằng chứng gía trị về tất cả mọi mặt, Trung Cộng dùng võ lực xâm chiếm Hoàng Sa và cùng một số nước khác chiếm đóng bất hợp pháp phần lớn Trường Sa thì Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước cơ quan thẩm quyền để trục xuất kẻ xâm lược nếu không tự mình làm được điều này chứ sao lại thương thảo để chia chác biển đảo VN với quân cướp? Cho dù không trục xuất được bọn cướp ngay thì phán quyết của một Toà Án Quốc Tế [như Hamburg chuyên về Luật Biển chẳng hạn] chí ít cũng giúp VN giữ được chủ quyền về pháp lý [và rất cần thiết cho mai sau] và ngăn chặn bất cứ ai muốn nhẩy vào hợp đồng khai thác với bọn cướp.
Việc mở rộng thềm lục địa VN liên đới chặt chẽ với chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa; rõ ràng là nếu thềm lục địa VN mở rộng ra 350 lý thì VN đương nhiên làm chủ Hoàng Sa Trường Sa vì khi đó Hoàng Sa Trường Sa nằm gọn trên thềm lục địa VN. Hơn nữa, theo Điều 77 Luật Biển thì đây là chủ quyền tuyệt đối của nước ven biển trong việc thăm dò và khai thác dầu khí.
Một lý do quan trọng khác khiến không nên tách Hoàng Sa Trường Sa ra khỏi thềm lục địa VN là vì 2 nhóm đảo này không được xem là hải đảo hay quần đảo theo nghĩa của Luật Biển. Theo Luật Biển, hải đảo hay đảo là một giải đất thiên nhiên bao bọc bởi nước và cao hơn mực nước thủy triều. Nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ có tiểu đảo, không có thường dân cư ngụ và không tự túc về kinh tế nên không được hưởng quy chế hải đảo hay đảo [Điều 121 Luật Biển].
Hoàng Sa Trường Sa cũng không phải là quần đảo theo nghiã Luật Biển vì diện tích quá nhỏ [6 hải lý vuông] trong một vùng biển rộng 180 ngàn hải lý vuông, vì theo Luật Biển [Điều 46 và 47], quần đảo bao gồm các đảo nằm san sát bên nhau và phải có diện tích bằng ít nhất 1/9 vùng biển, như Nam Dương chẳng hạn.
Hà Nội lúc nào cũng cho rằng VN có chủ quyền đối với Hoàng Sa Trường Sa nhưng chỉ tuyên bố cho có tuyên bố hay hội thảo um sùm nhưng thực tế thì để cho Trung Cộng chiếm trọn Hoàng Sa và lấn chiếm dần dần Trường Sa. Hoàng Sa Trường Sa là của VN với đầy đủ bằng cớ giá trị về tất cả phương diện lịch sử, địa lý, hành chánh và pháp lý thì ai cũng biết và chắc chắn Trung Cộng cũng biết nên mới phải dùng võ lực lấn chiếm. Nếu không đử sức để bảo vệ khi Hoàng Sa Trường Sa bị xâm lăng, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý huyết mạch bị xâm lấn và thậm chí ngư dân VN bị bắn giết bừa bãi, tịch thu tàu thyền trong lúc hành nghề hợp pháp trong vùng biển VN, thì chí ít Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước các cơ quan thẩm quyền phân xử. Nhưng Hà Nội chỉ phản ứng xuông qua loa vì có nhiều dấu hiệu khả tín chứng tỏ đảng CSVN đã dâng Hoàng Sa Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho đảng CSTH từ lâu rồi và nay Nguyễn Tấn Dũng nộp hồ sơ cho LHQ để hoàn tất tiến trình bàn giao những gì đã thoả thuận ngầm giữa 2 đảng CS này mà thôi.
Về công pháp quốc tế, sau nhiều thập niên bàn cãi qua nhiều hội nghị quốc tế, Luật Biển LHQ ra đời để giải quyết những tranh chấp xảy ra trên biển nhất là từ khi khám phá ra tiềm năng to lớn về dầu khí và khí đốt dưới đáy biển. Quan niệm biển cả là tài sản chung của nhân loại, Luật Biển dành quyền giải quyết mọi tranh chấp xảy ra trên biển, đặc biệt là vấn đề mở rộng thềm lục địa với những điều khỏan qui định rõ ràng và “chỉ vấn đề nào Luật Biển không đề cập tới mới giải quyết theo tập tục hay qui tắc tổng quát của Công Pháp Quốc Tế.” Do đó, các nguyên tắc như quyền chiếm hữu [occupation] hay công bố minh thị [express proclamation], nếu có được viện dẫn sau này để cho rằng “việc Trung Cộng chiếm cứ Hoàng Sa Trường Sa không có tác dụng tước đoạt chủ quyền lãnh thổ của VN” thiết nghĩ làm sao vô hiệu được quyết định của Ủy Ban Thềm Lục Địa khi Uỷ Ban này căn cứ vào thẩm quyền minh thị bởi Luật Biển LHQ để xác định thềm lục địa hay hải phận VN 200 hải lý -tức Hoàng Sa Trường Sa nằm ngoài hải-phận VN- do Hà Nội đã xác định qua hồ sơ nộp LHQ?
Hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt 25/12/2000?
1. Hà Nội và Bắc Kinh lén lút ký kết hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt ngày 25/12/2000 nhưng dấu kín nôi dung, dù dư luận ầm ĩ từ trong nước ra hải ngoại là VN mất trên 11 ngàn km2 vùng Vịnh Bắc Việt qua hiệp ước này. Khi 1 bản đồ trong hơ sơ mật của Hà Nội bị phát hiện thì mọi ngưới mới hay Hà Nội đã hiến cho Bắc Kinh tới 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt, không phải chỉ 11 ngàn km2.
Trong số 21 điểm qui định trong bản đồ đính kèm hiệp ước 25/12/2000 [dưới đây], ngoại trừ điểm 1 nằm ở vĩ tuyến 21 độ Bắc, tức cửa sông Bắc Luân ở ranh giới tỉnh Móng Caí/VN và tỉnh Quảng Đông/TH, các điểm mốc từ số 2 đến số 21 đều lấn sâu vào bờ biển VN.
Như điểm mốc 17 cách bờ biển VN 44 hải lý và cách Hải Nam 73 hải lý; tức sự phân chia vùng biển không đồng đều như Luật Biển qui định mà phía TH vượt trội phía VN tới 29 hải lý. Theo các nhà nghiên cứu và giới hiểu biết vấn đề thì Hà Nội đã để cho Bắc Kinh lấy bằng hết vùng thủy tra thạch cửa sông Hồng VN, nơi có tiềm năng dầu khí.
[Bản đồ ở hồ sơ “mật” 25/12/2000 của Hà Nội]
Trước dư luận lên án đảng CSVN lén lút dâng biển cho đảng CSTH ngày càng dữ dội, ngày 28/1/2002 Lê Công Phụng -Thứ Trưởng Ngoại Giao và Trưởng Ban đàm phán về biên giới và phân định lại Vịnh Bắc Việt, lên tiếng thanh minh thì lại lộ ra chẳng những Đảng CSVN đã bán nước cho Đảng CSTH từ lâu rồi mà chính Phụng cũng dối gạt dân chúng về cả Luật Biển LHQ.
Theo lời Phụng thì chính TBT Đỗ Mười [năm 1993] và TBT Lê Khả Phiêu [1997] đã sang Bắc Kinh để “thoả thuận các nguyên tắc căn bản về biên giới và lãnh hải” với TBT Giang Trạch Dân. Phụng còn dám dối gạt rằng y đã “căn cứ vào các qui định của Luật Biển LHQ và các nguyên tắc quốc tế và tập quán” trong lúc đàm phán với Bắc Kinh. Sự thực trái ngược hẳn lời Phụng tuyên bố và sau đây là vài thí dụ:
Theo Luật Biển LHQ, nếu 2 bên không thỏa thuận được với nhau thì phân chia lãnh hải theo “đường trung tuyến” [median line]. Đường trung tuyến trong trường hợp này là đường giữa đảo Bạch Long Vị của VN và đảo Hải Nam của TH; khoảng cách phải bằng nhau giữa 2 đảo này. Nhưng Phụng đã bất chấp điều luật này và chấp thuận đường phân chia cách Bạch Long Vĩ 15 hải lý và cách Hải Nam 55 hải lý, tức là phiá TH vượt trội phía VN 40 hải lý.
Luật Biển LHQ cũng qui định đường trung tuyến phải chạy giữa 2 đường bờ biển hay giữa 2 đảo; Phụng đã bất chấp qui định này và chấp thuận đường truong tuyến giữa đảo Hải Nam với bờ biển VN, hy sinh luôn đảo Bạch Long Vĩ của VN.
Toà Án Quốc Tế, án lệ Lybia vs. Malta [1985], đã phán quyết đảo dù lớn đến đâu cũng không bình đẳng với lục địa được và không cho đảo Malta được có lãnh hải bằng lục địa Lybia. Phụng đảo ngược Án Lệ Lybia khi cho đảo Hải Nam có lãnh hải hơn hẳn lục địa VN.
Theo giới am hiểu vấn đề thì cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh đều không có một lý do nào để phân định lại Vịnh Bắc Việt. Hiệp ước Constans ký kết tại Bắc Kinh ngày 16/6/1887 giữa đại diện Pháp [đô hộ VN lúc đó] và đại diện nhà Thanh [đô hộ TH] vẫn còn hiệu lực và phù hợp với Luật Biển LHQ mà Hà Nội và Bắc Kinh đều đã ký kết. -Ngày 12/11/1982, chính Hà Nội đã công bố lãnh hải VN vùng Vịnh Bắc Việt phải theo hiệp ước 16/6/1887, tức 63% diện tích Vịnh Bắc Việt thuộc về VN.
Bắc Kinh không chịu, buộc Hà Nội phải phân định lại vùng này và đảng CSVN đã cúi đầu khuất phục và lén lút ký hiệp ước 25/12/2000.
Hậu qủa của hiệp ước 25/12/2000 là VN đi từ 63% diện tích cũ xuống còn 53%. Thực tế còn bi đát hơn nữa: Trung Hoa chiếm tới 55% và VN 45% là tối đa, tức VN mất 20% hay khoảng 20 ngàn km2 vùng Vịnh Bắc Việt và quần đảo Hoàng Sa vào tay Trung Cộng qua việc phân định lại Vịnh Bắc Việt. Vì mất mát quá nhiều như thế nên Hà Nội đã dấu kín hiệp ước suốt bao năm qua.
Lời Kết
Với sự tiếp tay đắc lực của đảng CSVN, Bắc Kinh đang từng bước chiếm VN mà không cần phải động binh vừa hao người tốn của lại bị thế giới xúm vào lên án. Sau việc cho nhập cảnh không cần chiếu khán, đảng CSVN đã rước Trung Cộng vào ngồi ngay trên “mái nhà” VN giả danh khai thác bauxite bất chấp sự phản đối quyết liệt của người dân. Nay, lợi dụng việc xin mở rộng Thềm Lục Địa, đảng CSVN mưu toan dâng Trường Sa, Hoàng Sa và Vịnh Bắc Việt tức “nền nhà” VN cho Bắc Kinh qua hai hồ sơ nộp LHQ ngày 6 và 7/5/2009. .
Đất nước đã đến bờ vực thẳm! Bắc Kinh đang chiếm VN bằng “diễn tiến hoà bình” với sự đồng loã công khai của Hà Nội và với đà này thì VN sẽ lâm vào tình trạng Tân Cương và Tây Tạng một ngày không xa. Xin chớ nghĩ rằng VN từng bị ngàn năm Bắc-thuộc mà vẫn vùng lên giáng cho quân xâm lược những đòn chí tử vì kẻ thù ngày nay thâm độc và tàn ác gấp ngàn lần; nhìn gương Tây Tạng và Tân Cương thì rõ. Và cũng đừng ngây thơ mà trông chờ, tin tưởng vào bất cứ ai vì chén đắng 30/4/1975 còn nguyên trước mặt.
Ngoại xâm đang ngang nhiên cấu kết với nội xâm và tăng tốc để thực hiện những bước cuối cùng chiếm trọn VN. Nếu đồng bào quốc nội không mau tỉnh giấc để nhận ra tình huống vô cùng nguy hiểm của chính mình, người thân và dân tộc mà can đảm nhất loạt đứng lên thì rồi đây sẽ rơi vào số phận đáng thương người Tây Tạng và Tân Cương! Nếu đồng hương hải ngoại không gạt bỏ tị hiềm phe phái, vô tình hay cố ý lôi kéo mọi người vào những việc làm trình diễn hay chưa cần thiết và ngoảnh mặt làm ngơ trước tình thế cực kỳ mong manh của đất nước và dân tộc hiện nay thì sẽ phải trả giá với lương tâm và với lịch sử một ngày không xa!
Ls Nguyễn Thành
Coordinator, “Justice & Peace Committeee for Paracel & Spratly Islands of Vietnam”
Tài liệu tham khảo:
-United Nations Convention on the Law of the Sea of 10 December 1982;
-Vũ Hữu San, Địa Lý Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa, 1995, 2007;
-Nguyễn Thành, Đưa Việt Cộng ra trước LHQ, Toà Án các Quốc Gia và Toà Án Hình Sự Quốc Tế 2002?, tạp chí Tiếng Vang, Sacramento, Hoa Kỳ, số tháng 5 và tháng 6/2002.
-Nguyễn Hữu Thống, Vấn đề Hoàng Sa Trường Sa theo Công Pháp Quốc Tế, 2008
Chú thích:
[1] “On its position over the islands, China has been most reluctant to sujects the disputes to international legal arbitration: The case of South China Sea Islands by Chi-Kin Lo, 1989”.
[2] Tại hội nghị chuyên đề về Biển Đông ở Hà Nội ngày 10/11/2009, Vụ-trưởng Ban Biên Biới Bộ Ngoại Giao Hà Nội Nguyễn Duy Chiến nói với báo chí: “VN là nước ven biển nên đã nộp báo cáo cho Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa để bảo vệ quyền của VN đối với thềm lục địa ngoài 200 hải lý.” [Vietnamnet, 10//11/2009]
[3] Statement of Commision CLCS/64
[4] Joint Submission by Malaysia & Viet Nam in the South part of the South China Sea [May 6, 2009]
[5] Điều 76 Luật Biển LHQ: “An Exclusive Economic Zone extends for 200 nautical miles [370km] beyond the baselines of the territorial sea, thus it includes the territorial sea and its contiguous zone. A coastal nation has control of all economic resources within its EEZ, including fishing, mining, oil exploration, and any pollution of those resources. However, it can’t regulate or prohibit passage or loitering above, on, or under the surface of the sea, whether innocent or belligerent, withinthat portion of its EEZ beyond its territorial sea.”
[6] Điều 77 Luật Biển LHQ: “The continental shelf of a coast al nation extends out to the outer edge of the continental margin but at least 200 nautical miles from the baselines of the territorial sea margin does not stretch that far. The outer limit of a country’s continental shelf shall not stretch beyond 350 nautical miles of the baseline, or beyond 100 miles nautical miles from the 2,500 meter isobath.”
[7] Submission by Viet Nam in the Nrth Area [May 7, 2009]
[8] Vũ Dũng, thứ-trưởng ngoại giao Hà Nội, tuyên bố với báo chí đầu năm 2008 đã bị chính cựu Đại tá CS Bùi Tín cho là dối trá và thách đối chất như sau: “Do nắm chắc tình hình…mà tôi [Bùi Tín] muốn hỏi ông Vũ Dũng là theo ông có thật là ta không mất đất ở vùng Hà Giang, Lào Kay, Hoàng Liên Sơn không? Theo tôi, các đoàn đàm phán của ta từ 1996 đến 1999 đã tỏ ra rất mềm yếu. Nhiều giải núi ở Tây Bắc thưa dân, giầu tài nguyên, có gía trị quân sự bị lấn chiếm. Con số 700 đến 800 km2 bị mất không phải là bịa đặt. Thực tế có thể hơn… Giang Trạch Dân luôn thúc dục Lê Khả Phiêu phải thương lượng nhanh, phải ký hiệp ước trên bộ trong năm 1999 và trên biển trong năm 2000. Có ai đi thương lượng lại chịu ép trước về thời gian đến thế? Cho nên rất dễ hiểu là các nhà đàm phán VN đều nhũn như con chi chi. Chính Đỗ Mười cũng tố cáo Lê Khả Phiêu là nhượng bộ quá, “để mất quá nhiều” cho Trung-quốc… Hai bên đã thỏa thuận tháng 6/2008 này sẽ hoàn tất việc phân giới, cắm mốc và ký nghị định thư về biên giới trên bộ… Lúc ấy muốn che dấu, úp mở cũng không được nữa. Phía Bắc Kinh sẽ nhanh nhẩu phổ biến tập bản đồ mới để khoe thắng lợi, vì họ thắng đậm… Lúc ấy, các ông Vũ Dũng, Lê Dũng, Lê Công Phụng, rồi các ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Di Niên, đến ông Lê Khả Phiêu và 4 ông tứ trụ Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng sẽ có đầy đủ chứng cớ minh bạch là đã bảo vệ biên giới bất khả xâm phạm của Tổ-quốc ra sao, hay sẽ đực mặt bán đất bán nước ra sao!” [Vietbao, 4/9/2008]
[9] Toà Án Quốc Tế ad hoc Bosnia truy tố Slobodan Milosovic [Tổng thống Liên Bang Nam Tư], Thẩm Phán Tây Ban Nha Baltasar Gapzon ký trát nã bắt quốc tế bắt giam Augusto Pinochet [cựu tổng thống Chile] ở London ngày 16/10/1998 và yêu cầu được thẩm vấn Henry Kissinger [cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ] khi Kiss đến London diễn thuyết năm 2002, cả ba đều bị truy tố về “tội lạm quyền” cùng với nhiều tội ác nghiêm trọng khác. [Nguyễn Văn Thành, “Vụ án Pinochet làm rung chuyển công pháp quốc tế”, VN Nhật Báo, San Jose, 5/8/2000].
HỒ CHÍ MINH XIN THA TỘI
Tội lỗi con làm thật dã man,
Mậu Thân sát hại vạn dân oan.
Năm Tư đấu tố đầu rơi chặt !
Bảy mấy xua quân bắn thả dàn. (1972)
Karl Marx, Lenin liền ra lệnh,
Con nay hối hận kính xin van.
Hồ dê cáo lỗi xin ân hụê,
Mong được khoan hồng khỏi bị giam.
Hồ Chí Minh (ký tên)
Kính Lạy Oan Hồn Của 7.000 đồng bào vô tội ở Huế bị thãm sát trong biến cố tết Mậu Thân 1968! Kính Lạy Oan Hồn Của 10.000 Đồng bào Quảng Trị bị ĐẠI PHÁO CỦA BỘ ĐỘI GIẢI PHÓNG CHÚNG CON nghiền nát trên Đại Lộ Kinh Hoàng vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972! Kính Lạy Oan Hồn Của 2.000.000 Đồng Bào đã chết oan trên biển cả trên đường đi tìm tự do sau năm 1975! Kính Lạy Các Chư Vị Sỹ Quan và Binh Sỹ QLVNCH đã vị quốc vong thân! Kính lạy hương linh của hàng triệu đồng bào Việt nam đã bị những người cộng sản chúng con tàn sát! Con là Hồ Chí Minh, một đại tội đồ của dân tộc và tổ quốc Việt Nam: Nay con đã thấy ra được tội ác tày trời của con đối với tổ quốc, với dân tộc rồi, con xin ăn năn tội cùng chư vị và toàn thể đồng bào Việt nam, Xin đồng bào và chư vị hãy tha thứ tội lổi trời không dung đất không tha đó của con, Con xin thành kính cảm ơn chư vị! " Tội lỗi con làm thật dã man,
Mậu Thân sát hại vạn dân oan.
Năm Tư đấu tố đầu rơi chặt !
Bảy mấy xua quân bắn thả dàn. (1972)
Karl Marx, Lenin liền ra lệnh,
Con nay hối hận kính xin van.
Hồ dê cáo lỗi xin ân hụê,
Mong được khoan hồng khỏi bị giam.
Hồ Chí Minh (ký tên)
Con Cháu Của Chư Vị: Hồ Chí Minh,
Em Bé Lên Sáu Tuổi
Hoàng Cầm
Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miếng ăn
Bố: cường hào nợ máu
Đã trả trước nông dân
Mẹ bỏ con lay lất
Đi tuột vào trong Nam
Từ khi lọt lòng mẹ
Ăn sữa, ngủ giường êm
Áo hoa lót áo mềm
Nào biết mình sung sướng
Ngọn sóng đang trào lên
Ai nghĩ thân bèo bọt
Nhưng người với con người
Vẫn sẵn lòng thương xót
Có cụ già đói khổ
Lập cập đi mò cua :
Bố mẹ nó không còn
Bỗng thương tình côi cút
Cụ nhường cho miếng cơm
Chân tay như cái que
Bụng phình lại ngẳng cổ
Mắt tròn đỏ hoe hoe
Đứng nhìn đời bỡ ngỡ :
- “Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm, thầy ơi!”
Có một chị cán bộ
Đang phát động thôn ngoài
Chợt nhìn ra phía ngõ
Nghe tiếng kêu lạc loài
Chị rùng mình nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chỉ mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ
Chạy vùng ra phía ngõ
Dắt em bé vào nhà
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa
Chị bần cố nông cốt cán
Ứa nước mắt quay đi :
- "Nó là con địa chủ
Bé bỏng đã biết gì
Hôm em cho bát cháo
Chịu ba ngày hỏi truy “
Chị đội bỗng lùi lại
Nhìn đứa bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch
Chỉ thấy một con người
Em bé đã ăn no
Nằm lăn ra đất ngủ
Chị nghĩ : “Sau lấy chồng
Sinh con bồng bụ sữa”
Chị phải đình công tác
Vì câu chuyện trên kia
Buồng tối lạnh đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm thảo
Do cái lưỡi không xương
Nên nhiều đường lắt léo
Do con mắt bé tẻo
Chẳng nhìn xa chân trời
Do bộ óc chây lười
Chỉ một màu sắt rỉ
Đã lâu nằm ngủ kỹ
Trên trang sách im lìm
Do mấy con người máy
Đầy gân thiếu trái tim
Nào “liên quan phản động”
“Mất cảnh giác lập trường”
Mấy đêm khóc ròng rã
Ngọn đèn soi tù mù
Lòng vặn hỏi câu hỏi :
“Sao thương con kẻ thù?
Giá ghét đươ.c đứa bé
Lòng thảnh thơi bao nhiêu!”
Hoàng Cầm
Trứng vịt lộn từ... gà con chết
Những con gà chết được dùng làm trứng vịt lộn
Trứng ung qua công nghệ rùng rợn trở thành trứng gà mới toanh
Dầu ăn làm từ nước thải
Dầu ăn được luyện từ những thứ đến... lợn cũng phải sợ.
Cặn bã sền sệt được móc lên từ cống sau đó sẽ được thu gom lại để "chưng cất" thành dầu ăn.
Kinh hãi "công nghệ" làm bánh Trung Thu
Khi ngày rằm Trung Thu đang đến dần thì nỗi lo về những loại bánh Trung Thu kém chất lượng, không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm lại trở nên nhức nhối.
Không nên ham rẻ khi mua bánh Trung Thu không đảm bảo vệ sinh. ảnh Hà Thủy
Còn nửa tháng nữa là đến rằm Trung Thu vì vậy đến thời điểm này nhiều cơ sở sản xuất bánh ở Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội bắt đầu hoạt động mạnh. Ngay từ lối vào làng đã xuất hiện nhiều quầy bán hàng với những băng rôn quảng cáo: Hiệu bánh Trung Thu gia truyền hay Sản xuất bánh Trung Thu cổ truyền. Hỏi thăm mới biết, ngoài đường chủ yếu là cửa hàng giới thiệu sản phẩm, còn muốn mua buôn, “đổ đống” thì phải vào tận xưởng, ở đó giá cả mới hợp lý. Các xưởng sản xuất không nằm bên ngoài mà nằm trong ngõ ngách xen kẽ với khu dân cư.
Ngay từ lối vào của một cơ sở sản xuất bánh Trung Thu mùi chua nồng, cùng mùi ẩm mốc bốc lên nồng nặc. Những bao tải màu trắng đựng bột làm bánh ngổn ngang dưới sàn gạch. Gọi là xưởng nhưng thực ra là một cái lán dựng ngay bên cạnh nhà dân, bốn năm người thợ cởi trần, mặc chiếc xà lỏn đang tay không nặn bánh cho vào khuôn. Hai người phụ nữ đang băm thái một cái gì đó, ngoài những chiếc khay đựng bánh, những chiếc chậu, nồi chảo lớn, tất cả đều đen đúa và cáu bẩn.
Trên chiếc giá bằng sắt, tầm 5 chiếc mẹt đựng đầy mứt, xúc xích băm nhỏ ruồi nhặng bâu đen. Có hai chiếc bể lớn bằng xi măng nước váng màu bốc mùi oi oi. Ngâm trong đó là những miếng màu xanh cắt khúc, cầm thử lên tôi mới biết đó là bí xanh, dùng làm nhân bánh thập cẩm.
Xưởng bánh Trung Thu này sản xuất cả bánh nướng và bánh dẻo với đủ các loại nhân: sen, thập cẩm, đậu xanh, khoai môn, từ 200g đến 400g, với đủ loại mẫu mã tuỳ theo khách đặt hàng. Xưởng bánh của anh chỉv bán buôn, bánh được bán theo cân, khoảng 40 nghìn đồng/1kg. Tuy nhiên, anh này cũng cho biết: Loại 400 g giá thành cao nên khó bán, vì thế khách hàng chủ yếu đặt loại bánh 200 g, tính ra khoảng 8 nghìn đồng 1 chiếc”. Xưởng anh Toàn còn sản xuất loại bánh chỉ gần 200 g bởi so với loại 200 g nó không khác nhau là mấy và dễ tiêu thụ hơn.
Các cơ sở sản xuất bánh Trung Thu ở Xuân Đỉnh chủ yếu sản xuất bánh trần còn mẫu mã thì tuỳ khách hàng đặt chủ xưởng.
Khi chúng tôi hỏi về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, một chủ cơ sở sản xuất bánh thật thà nói: “Ở đây sản xuất chỉ quan tâm đến số lượng thôi vì giá thành nguyên liệu tăng cao, giá bánh thì rẻ, nếu đầu tư vào cơ sở vật chất thì chỉ có lỗ vốn”.
Tại một cửa hàng bánh Trung Thu truyền thống ngay đầu xã, ông chủ cho biết, “Ở đây không bán buôn, chỉ bán lẻ nhưng mỗi ngày tiêu thụ cả nghìn chiếc, chủ yếu là loại bánh dẻo và bánh nướng trần. Còn nếu mang biếu thì khách hàng có thể mua thêm vỏ hộp đứng bốn chiếc với giá 15 nghìn đồng /vỏ hộp, đẹp và mẫu mã giống với hộp bánh của Kinh Đô, Bibica hay Hải Hà”.
Xã La Phù, Hoài Đức, Hà Nội - một trong những làng nghề sản xuất bánh Trung Thu nổi tiếng "siêu rẻ", không khí sản xuất nơi đây bắt đầu nhộn nhịp, từ đầu xã đã thấy những chiếc xe tải lớn trở hàng tấp nập ra vào. Cũng giống như Xuân Đỉnh, không dễ gì tìm được những xưởng sản xuất bánh ngay ngoài đường. Theo quan sát của chúng tôi, những cơ sở sản xuất bánh trung Thu ở La Phù cũng không khá hơn nhiều lắm so với những cơ sở ở Xuân Đỉnh. Vẫn là những công nhân làm bánh không có bảo hộ lao động tay trần đóng gói bánh, những chiếc chậu đựng nhân bánh ruồi nhặng bâu đầy, bàn nhào bột làm bánh cáu đen tưởng như nó chỉ được rửa qua loa khi vừa xong việc.
Một chủ xưởng sản xuất bánh Trung Thu lớn ở La Phù cho biết: “Bánh Trung Thu của La Phù chỉ cạnh tranh được các loại bánh khác về khối lượng và giá cả. Vì vậy bánh ở đây chỉ được đóng trần bọc một lớp ni lông để chống ẩm mốc, nếu khách hàng yêu cầu thì mới đóng hộp và dán nhãn mác cẩn thận. Bánh ở La Phù sản xuất ra chủ yếu tiêu thụ ở các tỉnh lẻ và khu vực miền núi.
Ngoài đường, chủ một đại lý rất lớn bầy bán bánh Trung Thu Hữu Nghị cho biết: “Là nơi sản xuất bánh Trung Thu thật, nhưng dân ở đây không ăn bánh họ làm đâu mà toàn mua bánh cao cấp của đại lý bọn tôi về ăn, thắp hương và mang biếu thôi”
********************
Những thực phẩm "rùng rợn" của Trung Cộng
Chỉ vì siêu lợi nhuận mà những cơ sở sản xuất đậu xanh, trứng vịt lộn, trứng gà tại Trung Quốc đã bất chấp đến sức khỏe của người tiêu dùng.
Làm giả cả hạt đậu xanh
Làm giả cả hạt đậu xanh
Vụ việc được phát hiện khi các thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm của thành phố Hành Dương, tỉnh Hồ Nam tiến hành kiểm tra dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên các mẫu đậu xanh và đậu Hà Lan tại một nhà máy chế biến thực phẩm ở đây. Các nhân viên điều tra đã cải trang thành công nhân và ghi lại quá trình sản xuất đậu giả.
Đầu tiên những bao đậu tuyết, đậu nành khô lép được bỏ vào ngâm trong những thùng nước lớn có màu xanh nhạt. Hỗn hợp này có chứa màu và metabisulfile natri, loại phụ gia có công dụng tẩy và chất bảo quản. Sau đậu được vớt ra, để ráo nước, những hạt đậu mốc meo lúc này cũng trở nên căng tròn, tươi ngon và chẳng khác gì hạt “đậu xanh thật”.
Theo một chủ cơ sở sản xuất tiết lộ: Cách làm này là siêu lợi nhuận, vì cứ 1kg đậu tuyết sau khi chế biến sẽ cho ra 3kg đậu xanh giả, còn 1kg đậu nành cho 3,5kg.
Theo một chủ cơ sở sản xuất tiết lộ: Cách làm này là siêu lợi nhuận, vì cứ 1kg đậu tuyết sau khi chế biến sẽ cho ra 3kg đậu xanh giả, còn 1kg đậu nành cho 3,5kg.
Trứng vịt lộn từ... gà con chết
Vào trung tuần tháng Bảy vừa qua, ngành chức năng ở thành phố Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm đã phát hiện được một một xưởng gia công công trứng vịt lộn từ... những con gà con chết. Nghĩa là loại trứng vịt lộn (đã thành con hoàn toàn) mà xưởng này xuất bán cho các quán ăn trong và ngoài thành phố Công Chủ Lĩnh, thực chất đều là gà con ấp nở bị chết.
Những con gà chết được dùng làm trứng vịt lộn
Tại địa điểm đã phát hiện, người ta thấy một chiếc vạc lớn đặt ở giữa xưởng, trong đó có hàng loạt xâu gà con chết với ruồi nhặng bâu đầy. Và cạnh đó là những quả trứng vịt lộn xếp thành dãy. Toàn bộ số nguyên liệu và hàng thành phẩm đang chuẩn bị được đưa đi giao cho các nhà hàng này đều bị thu giữ.
Chế tác trứng gà tươi từ trứng hỏng...
Chế tác trứng gà tươi từ trứng hỏng...
Trứng ung qua công nghệ rùng rợn trở thành trứng gà mới toanh
Ngoài loại “đặc sản” trứng vịt lộn từ gà con... chết nói trên, nhà xưởng này còn chuyên cung cấp “trứng gà tươi” mới ra thị trường từ trứng hỏng, trứng ung... Được biết, những quả trứng đã hỏng, được các nhân viên thu gom từ các chợ về. Họ đập những quả trứng đó ra rồi khuấy trộn đều, rồi đổ ra khuôn có sẵn, sau đó đem chưng cách thuỷ và làm lạnh trở thành những quả trứng gà mới toanh và được... tuồn trở lại thị trường bán cho người tiêu dùng.
Dầu ăn làm từ nước thải
Lợi nhuận khổng lồ từ sử dụng dầu bẩn được “lọc” từ nước thải cống rãnh nhà hàng đã khiến rất nhiều người bất chấp nguy hiểm đến sức khỏe và tính mạng người tiêu dùng.
Dầu ăn được luyện từ những thứ đến... lợn cũng phải sợ.
Để có dầu bẩn xuất cho các nhà hàng, khách sạn, quán ăn, những ông chủ bà chủ vựa dầu phải tuyển dụng một lực lượng vớt dầu chuyên nghiệp. Những người này sẽ mang xô thùng gầu chậu tới cống, rãnh nước thải của các nhà hàng, quán ăn, quán cơm để múc lớp bọt, váng dầu lẫn cơm thừa canh cặn, những thứ… lợn cũng lắc đầu này được đem về chế biến.
Cặn bã sền sệt được móc lên từ cống sau đó sẽ được thu gom lại để "chưng cất" thành dầu ăn.
Kinh hãi "công nghệ" làm bánh Trung Thu
Khi ngày rằm Trung Thu đang đến dần thì nỗi lo về những loại bánh Trung Thu kém chất lượng, không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm lại trở nên nhức nhối.
Không nên ham rẻ khi mua bánh Trung Thu không đảm bảo vệ sinh. ảnh Hà Thủy
Còn nửa tháng nữa là đến rằm Trung Thu vì vậy đến thời điểm này nhiều cơ sở sản xuất bánh ở Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội bắt đầu hoạt động mạnh. Ngay từ lối vào làng đã xuất hiện nhiều quầy bán hàng với những băng rôn quảng cáo: Hiệu bánh Trung Thu gia truyền hay Sản xuất bánh Trung Thu cổ truyền. Hỏi thăm mới biết, ngoài đường chủ yếu là cửa hàng giới thiệu sản phẩm, còn muốn mua buôn, “đổ đống” thì phải vào tận xưởng, ở đó giá cả mới hợp lý. Các xưởng sản xuất không nằm bên ngoài mà nằm trong ngõ ngách xen kẽ với khu dân cư.
Ngay từ lối vào của một cơ sở sản xuất bánh Trung Thu mùi chua nồng, cùng mùi ẩm mốc bốc lên nồng nặc. Những bao tải màu trắng đựng bột làm bánh ngổn ngang dưới sàn gạch. Gọi là xưởng nhưng thực ra là một cái lán dựng ngay bên cạnh nhà dân, bốn năm người thợ cởi trần, mặc chiếc xà lỏn đang tay không nặn bánh cho vào khuôn. Hai người phụ nữ đang băm thái một cái gì đó, ngoài những chiếc khay đựng bánh, những chiếc chậu, nồi chảo lớn, tất cả đều đen đúa và cáu bẩn.
Trên chiếc giá bằng sắt, tầm 5 chiếc mẹt đựng đầy mứt, xúc xích băm nhỏ ruồi nhặng bâu đen. Có hai chiếc bể lớn bằng xi măng nước váng màu bốc mùi oi oi. Ngâm trong đó là những miếng màu xanh cắt khúc, cầm thử lên tôi mới biết đó là bí xanh, dùng làm nhân bánh thập cẩm.
Xưởng bánh Trung Thu này sản xuất cả bánh nướng và bánh dẻo với đủ các loại nhân: sen, thập cẩm, đậu xanh, khoai môn, từ 200g đến 400g, với đủ loại mẫu mã tuỳ theo khách đặt hàng. Xưởng bánh của anh chỉv bán buôn, bánh được bán theo cân, khoảng 40 nghìn đồng/1kg. Tuy nhiên, anh này cũng cho biết: Loại 400 g giá thành cao nên khó bán, vì thế khách hàng chủ yếu đặt loại bánh 200 g, tính ra khoảng 8 nghìn đồng 1 chiếc”. Xưởng anh Toàn còn sản xuất loại bánh chỉ gần 200 g bởi so với loại 200 g nó không khác nhau là mấy và dễ tiêu thụ hơn.
Các cơ sở sản xuất bánh Trung Thu ở Xuân Đỉnh chủ yếu sản xuất bánh trần còn mẫu mã thì tuỳ khách hàng đặt chủ xưởng.
Khi chúng tôi hỏi về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, một chủ cơ sở sản xuất bánh thật thà nói: “Ở đây sản xuất chỉ quan tâm đến số lượng thôi vì giá thành nguyên liệu tăng cao, giá bánh thì rẻ, nếu đầu tư vào cơ sở vật chất thì chỉ có lỗ vốn”.
Tại một cửa hàng bánh Trung Thu truyền thống ngay đầu xã, ông chủ cho biết, “Ở đây không bán buôn, chỉ bán lẻ nhưng mỗi ngày tiêu thụ cả nghìn chiếc, chủ yếu là loại bánh dẻo và bánh nướng trần. Còn nếu mang biếu thì khách hàng có thể mua thêm vỏ hộp đứng bốn chiếc với giá 15 nghìn đồng /vỏ hộp, đẹp và mẫu mã giống với hộp bánh của Kinh Đô, Bibica hay Hải Hà”.
Xã La Phù, Hoài Đức, Hà Nội - một trong những làng nghề sản xuất bánh Trung Thu nổi tiếng "siêu rẻ", không khí sản xuất nơi đây bắt đầu nhộn nhịp, từ đầu xã đã thấy những chiếc xe tải lớn trở hàng tấp nập ra vào. Cũng giống như Xuân Đỉnh, không dễ gì tìm được những xưởng sản xuất bánh ngay ngoài đường. Theo quan sát của chúng tôi, những cơ sở sản xuất bánh trung Thu ở La Phù cũng không khá hơn nhiều lắm so với những cơ sở ở Xuân Đỉnh. Vẫn là những công nhân làm bánh không có bảo hộ lao động tay trần đóng gói bánh, những chiếc chậu đựng nhân bánh ruồi nhặng bâu đầy, bàn nhào bột làm bánh cáu đen tưởng như nó chỉ được rửa qua loa khi vừa xong việc.
Một chủ xưởng sản xuất bánh Trung Thu lớn ở La Phù cho biết: “Bánh Trung Thu của La Phù chỉ cạnh tranh được các loại bánh khác về khối lượng và giá cả. Vì vậy bánh ở đây chỉ được đóng trần bọc một lớp ni lông để chống ẩm mốc, nếu khách hàng yêu cầu thì mới đóng hộp và dán nhãn mác cẩn thận. Bánh ở La Phù sản xuất ra chủ yếu tiêu thụ ở các tỉnh lẻ và khu vực miền núi.
Ngoài đường, chủ một đại lý rất lớn bầy bán bánh Trung Thu Hữu Nghị cho biết: “Là nơi sản xuất bánh Trung Thu thật, nhưng dân ở đây không ăn bánh họ làm đâu mà toàn mua bánh cao cấp của đại lý bọn tôi về ăn, thắp hương và mang biếu thôi”
******************
Chuyện dài về "Thực Phẩm nhập cảng từ Trung Cộng".
STOP EATING CHINA BUFFET,
It’s imported 100% ready made from CHINA.
ĐỪNG ĂN SỦI CẢO CỦA TRUNG CỘNG
Càng ngày người ta càng khám phá thực phẩm TC có chứa độc tố. Bánh sủi cảo Trung Cộng là một thí dụ. Vậy, tẩy chay bất cứ hàng hóa nào của TC, ngay cả không đi ăn nhà hàng Tàu. Nhà hàng Tàu ở Mỹ sống được là nhờ người tị nạn. "Diểm Sắm" đông lạnh nhập cảng từ TC, nhà hàng Tàu chỉ hâm nóng rồi bán (xem hình "sùi cảo").
Năm 2008, các nước có nhập khẩu thực phẩm đông lạnh của Trung quốc bàng hoàng khi biết được bánh sủi đông lạnh có chứa độc tố Methamidophos.....
Càng ngày người ta càng khám phá thực phẩm TC có chứa độc tố. Bánh sủi cảo Trung Cộng là một thí dụ. Vậy, tẩy chay bất cứ hàng hóa nào của TC, ngay cả không đi ăn nhà hàng Tàu. Nhà hàng Tàu ở Mỹ sống được là nhờ người tị nạn. "Diểm Sắm" đông lạnh nhập cảng từ TC, nhà hàng Tàu chỉ hâm nóng rồi bán (xem hình "sùi cảo").
Năm 2008, các nước có nhập khẩu thực phẩm đông lạnh của Trung quốc bàng hoàng khi biết được bánh sủi đông lạnh có chứa độc tố Methamidophos.....
Không chỉ bánh sủi cảo, mà hầu hết các mặt hàng thực phẩm đông lạnh “Made in China” đều bị nhìn bằng con mắt ngờ vực.
Ngày 27 tháng 3 năm 2010, Tân Hoa Xã loan tải một bản tin ngắn cho biết công an đã bắt được thủ phạm bỏ chất độc Methamidophos vào bánh sủi cảo. Tuy nhiên chính quyền Bắc Kinh lại cấm không cho các ký giả tường thuật nội vụ.
Không chỉ các mặt hàng thực phẩm đông lạnh có độc tố bị trả về Trung quốc, mà nhiều mặt hàng khác cũng vậy; những thứ này sau đó lại được tống sang Việt Nam,….
No comments:
Post a Comment