Sunday, January 2, 2011

Năm mới có hy vọng gì mới?

Nguyễn Hưng Quốc
Mấy ngày nay, đọc báo Úc, thấy các bình luận gia tiên đoán tình hình Úc trong năm 2011 sắp tới mà thèm. Ai cũng cho Úc, vốn là một trong vài quốc gia Tây phương hiếm hoi không bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong hai năm vừa qua, sẽ tiếp tục phát triển. Ngành mỏ vẫn là mặt mạnh của nền kinh tế Úc. Thị trường nhà đất khá ổn định. Tâm lý của giới sản xuất và kinh doanh, nói chung, đầy tự tin; và của giới tiêu thụ, khá lạc quan. Còn về chính trị thì chắc chắn có thay đổi ở vài tiểu bang nhưng dĩ nhiên là sẽ không có biến động hay khủng hoảng gì có ảnh hưởng đến đời sống mọi người cả.
Thèm.
Rồi nghĩ đến Việt Nam.
Theo truyền thống, bao giờ chúng ta cũng gắn liền năm mới với những hy vọng mới. Mỗi người có hy vọng riêng. Mỗi gia đình có hy vọng riêng. Và cả nước cũng khắc khoải với những hy vọng mới. Có điều, ở vào thời điểm cuối năm 2010, nhìn tới nhìn lui, khó tìm thấy được một tia hy vọng nào thật lớn. Về kinh tế, món nợ hơn 4,4 tỉ đô la (tương đương với 4,5% tổng sản lượng nội địa của Việt Nam trong năm 2009!) (1) vẫn treo lơ lửng trên đầu mọi người. Về giáo dục, không có chút xíu hứa hẹn nào cho thấy tình trạng ngồi nhầm lớp, nạn bằng giả bằng dởm cũng như sự tham nhũng trong học đường sẽ giảm, chất lượng học vấn sẽ tăng. Về xã hội, trong năm mới, đường xá chắc chắn sẽ tiếp tục bị kẹt; các hố tử thần chắc chắn vẫn còn; cảnh sát giao thông chắc chắn vẫn tiếp tục làm tiền người đi đường; tai nạn giao thông chắc chắn sẽ giết chết hàng ngàn người mỗi tháng.
Còn về chính trị? Trời, nhìn đâu cũng thấy tối mịt. Bóng dáng tên khổng lồ Trung Quốc án ngữ khắp nơi, không những ở biển Đông hay các vùng dọc theo biên giới hai nước mà còn ở mọi mặt trận, từ ngoại giao đến kinh tế, từ hình ảnh các bản đồ Trung Quốc bao trùm cả Hoàng Sa và Trương Sa xuất hiện nhan nhản khắp nơi trên thế giới đến các loại hàng hóa rẻ tiền, kể cả hàng giả và hàng nhái ngày ngày vượt qua biên giới tràn vào Việt Nam, đầy ngập trên các chợ và quán xá.
Hình như, với nhiều người, chút hy vọng chỉ le lói ở một điểm: Đại hội đảng lần thứ 11 sẽ được tổ chức vào ngày 11 tháng 1 sắp tới. Theo tin tức từ các hãng thông tấn quốc tế, vấn đề nhân sự của Đại hội dường như đã được giải quyết. Theo đó, ông Nguyễn Phú Trọng, đương kim Chủ tịch Quốc Hội, sẽ lên nắm chức Tổng bí thư thay thế Nông Đức Mạnh; ông Trương Tấn Sang sẽ thay Nguyễn Minh Triết làm Chủ tịch nước, ông Phạm Quang Nghị sẽ lên làm Chủ tịch Quốc Hội, và ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ tiếp tục giữ chức Thủ tướng thêm một nhiệm kỳ 5 năm nữa.
Không có ai trong bốn người ấy có khả năng làm được điều gì mới mẻ. Thứ nhất, họ đều là sản phẩm thuần thành của chế độ hiện tại. Thứ hai, trong suốt sự nghiệp khá dài của họ, chưa bao giờ họ cho thấy bất cứ cách suy nghĩ táo bạo nào cả. Nói cho đúng, trong bốn người, Trương Tấn Sang tương đối còn là một bí ẩn. Trong nhiều năm qua, ông không giữ một chức vụ gì thật quan trọng để qua đó, người ta có thể đánh giá chính xác lập trường, quan điểm và phong cách lãnh đạo của ông. Tuy nhiên, chức vụ mà ông có hy vọng đảm nhận, Chủ tịch nước, lại là cái chức vụ có danh nhiều hơn thực.
Hơn nữa, vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay không phải là nhân sự mà là cơ chế. Nhân sự, người này có thể sâu sắc hay khả ái hơn người kia một chút; nhưng về ý thức hệ, và cùng với nó, những chính sách căn bản, họ vẫn là một. Ngay cả khi họ có tài năng lỗi lạc đi nữa, thì với cơ chế hiện tại, cái cơ chế khiến Thủ tướng không thể cách chức được bất cứ cán bộ nào dưới quyền như lời thú nhận của Phạm Văn Đồng trước kia và của Nguyễn Tấn Dũng gần đây, họ cũng chẳng làm được gì nhiều.
Cơ chế nói ở đây không phải là cơ chế ở tầm vi mô qua cách thức sắp xếp nhân sự hay quản lý ở cấp bộ hay ban, ngành. Mà là cơ chế ở tầm vĩ mô, gắn liền với cả hệ thống chính trị, và đằng sau nó, hiến pháp và hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Trong cái gọi là cơ chế vĩ mô ấy, vấn đề quan trọng nhất là mối quan hệ giữa đảng và nhà nước. Cái khẩu hiệu “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý” chỉ là một khẩu hiệu sáo rỗng và chỉ dẫn đến những rối ren, bế tắc. Đảng lãnh đạo nhưng vì đảng nằm ngoài luật pháp nên hầu như không phải chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì cả. Sai cách mấy cũng không phải chịu trách nhiệm. Nhà nước quản lý nhưng lại không thể quản lý được cả khối nhân lực hùng hậu bao gồm cả mấy triệu đảng viên vốn là những kẻ lãnh đạo mình. Sự kiện Thủ tướng không có quyền sa thải nhân viên dưới quyền của mình xuất phát từ đó. Trên nguyên tắc, Thủ tướng có quyền hạn trên các Bộ trưởng và các Bộ trưởng có quyền hạn trên các giám đốc Sở ở địa phương. Nhưng trên thực tế, các ghế Bộ trưởng thường do Bộ Chính trị sắp xếp; còn các ghế giám đốc Sở thì lại do các tỉnh uỷ hay thành ủy ở các địa phương bổ nhiệm. Thủ tướng muốn cách chức một giám đốc Sở nào đó nhưng nếu tỉnh ủy hay thành ủy ở đó không đồng ý thì Thủ tướng cũng đành bó tay. Đó là chưa kể có không ít trường hợp Thủ tướng còn yếu cơ hơn cả Bộ trưởng (ví dụ trường hợp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Bộ trưởng Công An Lê Hồng Anh trước đây: có thời kỳ vị trí của Lê Hồng Anh trong Bộ Chính trị còn cao hơn Nguyễn Tấn Dũng!)
Việt Nam cần thay đổi cơ chế. Nhưng không có cơ chế nào là hoàn hảo. Ngay cơ chế ở các quốc gia phát triển và nổi tiếng tiến bộ nhất thế giới cũng có những điểm bất toàn. Người ta lấy gì để khắc phục những sự bất toàn ấy? Đó là sự minh bạch (transparency) và tính khả kiểm (accountability). Thiếu tính minh bạch và khả kiểm, không những tham nhũng hoành hành mà sự bất tài và bất lực cũng tha hồ tác oai tác quái; không những sự tiến bộ bị trì trệ mà nền dân chủ cũng bị đe dọa.
Nhưng tính minh bạch và khả kiểm chỉ có thể tồn tại được với một điều kiện: tự do, trước hết, là tự do thông tin và tự do ngôn luận. Người dân (những kẻ được xem là “chủ” của đất nước theo công thức: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”) chỉ có thể làm “chủ” nếu họ có thể tham gia được vào các quyết định quan trọng của đất nước; và họ chỉ có thể tham gia nếu họ có thể nắm bắt được các thông tin cần thiết. Tuy nhiên, họ chỉ nắm bắt được các thông tin ấy nếu họ được phép, không phải chính phủ hay cá nhân nào đó cho phép mà là chính luật pháp cho phép, nghĩa là, nói cách khác, họ được quyền tự do thông tin. Ở Tây phương, nhân danh cái quyền ấy, các cơ quan truyền thông thường yêu cầu chính phủ phải cung cấp cho họ toàn bộ các thông tin liên quan đến một sự kiện hay một vấn đề nào đó.
Dĩ nhiên, tự do thông tin chỉ là điều vô nghĩa nếu không gắn liền với tự do ngôn luận. Biết mà không được nói, còn gì khổ bằng?
Nói tóm lại, theo tôi, tình hình Việt Nam chỉ có thể thay đổi nếu, trước hết, cơ chế quyền lực trong cả nước phải thay đổi, trong đó, quan trọng nhất là quyền của đảng và nhà nước phải được phân hóa thật rạch ròi; sau đó, sự minh bạch và tính khả kiểm phải trở thành nguyên tắc chủ đạo trong việc điều hành chính phủ; và cuối cùng, quyền tự do thông tin và tự do ngôn luận phải được nhìn nhận và phải được tôn trọng.
Thiếu những yếu tố ấy, mọi hứa hẹn đều là những hứa hẹn suông.
Và tương lai vẫn mù mịt.

---------------------------

Năm 2010: Những danh từ gây ấn tượng nhất

Bùi Tín Blog

Năm 2010 vừa qua, những người theo dõi thời cuộc của đất nước có dịp ghi nhận nhiều sự kiện mới lạ, đáng tìm hiểu và ghi nhớ, làm phong phú thêm hành trang tư tưởng và kiến thức của mọi người trong cục diện chính trị - kinh tế - đối ngoại và văn hóa phức tạp hơn những năm trước. Trong sổ tay của mỗi người đã ghi lại nhiều danh từ mới mẻ gắn liền với năm 2010, được các cơ quan thông tin đại chúng, báo chí, đài phát thanh, truyền hình và các blog cá nhân nhắc đến với mật độ cao.
Như để thách thức nhà cầm quyền và riêng ngành tư pháp cũng như khẩu hiệu “xây dựng xã hội công bằng, dân chủ văn minh”, tên các vụ án là các danh từ đặc biệt nổi bật.
Đó là “Vinashin”, tên một cực đại công ty quốc doanh đóng tàu thủy viễn dương, mấp mé bên bờ phá sản, nợ kỷ lục lên đến hơn 5 tỷ đô la (có người cho rằng nó đã bị phá sản rồi), đang được Nhà nước quyết ra tay “cơ cấu lại” (nhiều ý kiến cho rằng “sẽ là thùng không đáy, lãng phí thêm hàng tỷ đô la”…).
Đó là “Securency” và “Nexus Technology”, hai công ty của Úc và Hoa Kỳ liên quan đến các vụ tham nhũng của các viên chức Việt Nam cấp cao, đã được tòa án các nước trên khởi tố và xét xử, nhưng các cơ quan công an, tư pháp của Việt Nam đến nay vẫn chưa muốn vào cuộc, mặc cho trong Bộ luật “Phòng chống tham nhũng” có những điều khoản quy định rõ về “khẩn trương giải quyết các vụ án tham nhũng có nhân tố nước ngoài”.
Lại còn vụ án mang tến “PMU 18”, dính đến một loạt quan chức cấp cao ngành Giao thông Vận tải, vẫn ì ạch, dẫm chân tại chỗ đã hơn 4 năm, được coi là mẫu mực về tốc độ “khẩn trương” của một con rùa.
Vụ án khác thường được gọi là “Vụ án Hà Giang”, năm 2009 đã xử sơ thẩm, năm 2010 bị tòa Phúc thẩm hủy bỏ để điều tra lại từ đầu. Nhóm quan chức đầu tỉnh, vốn là đầu mối của vụ án gọi đúng tên là “tổ chức cưỡng dâm tập thể nữ sinh vị thành niên”, chỉ bị “phê bình về khuyết điểm trong sinh hoạt”, trong khi hai em nữ sinh - thực chất là nạn nhân - hiện vẫn nằm trong tù một cách oan trái trong vụ án vẫn mang cái tên ngược đời là “Vụ án bán dâm”.
Cũng trong năm 2010, nhiều vụ án bị chụp cho cái mũ là “âm mưu lật đổ chính quyền” nhằm kết án những chiến sỹ dân chủ gan góc, đồng thời đe dọa những người sẵn sàng dấn thân cho tự do của nhân dân; trong khi đó chính những nhà lãnh đạo đảng khẳng định rằng không ai lật đổ được đảng và chế độ này, trừ phi chính những người cộng sản thoái hóa, biến chất; cũng nên thêm: bởi cả những người lãnh đạo cộng sản giáo điều mù quáng bám chặt những lý thuyết và tư tưởng đã phá sản rõ rệt.
Phản biện” cũng là một từ kép nổi bật trong năm 2010, khi nhà cầm quyền nghiêm cấm phản biện công khai trên báo chí, tuyệt đối cấm báo chí đăng những ý kiến phản biện đụng đến đường lối chính sách của đảng và nhà nước, vấp phải phản ứng quyết liệt của giới trí thức cho rằng khoa học phát triển ngày càng tiến bộ, có sáng tạo, với vô vàn phát minh là nhờ ở phản biện, cọ xát ý kiến và tranh luận. Do đó, cấm phản biện là chủ trương tối tăm, phản khoa học, phản tiến bộ.
Từ chủ trương “cấm phản biện”, việc Bộ Chính trị kêu gọi toàn đảng, toàn dân góp ý “thẳng thắn và mạnh dạn vào các văn kiện Đại hội XI” trở nên trò đùa trơ trẽn, khi chính những trí thức cao cấp của đảng năm nay góp ý mạnh dạn và thẳng thắn hơn bao giờ hết, bằng cách đồng loạt bác bỏ tất cả 4 cột trụ lý luận và tư tưởng của Đại hội XI là: (1) Chủ nghĩa Marx-Lenin, (2) Chủ nghĩa xã hội, (3) Nền dân chủ độc đảng và (4) Kinh tế quốc doanh là chủ đạo. Do đó, Đại hội XI sẽ đánh dấu một sự tách biệt bi thảm, có thể nói là một sự chia tay hoành tráng giữa lãnh đạo đảng và giới trí thức dân tộc, một sự chia tay không mấy vẻ vang cho đảng, vốn luôn tự nhận mình là kết tinh của dân tộc và khoa học.
Đi liền với việc “phản biện”, là hiện thân của khoa học, “bauxite” và “thảm họa môi trường do bùn đỏ gây nên” được bàn luận sôi nổi trong xã hội và cả trên diễn đàn quốc hội, dẫn đến sự tồn tại dai dẳng nổi bật của mạng truyền thông Bauxite Việt Nam, được đông đảo người đọc nhất nước ta trong năm 2010.
Cũng trong năm 2010, danh từ “Biển Đông” - với nghĩa “vùng biển phía Đông của Việt Nam và của các nước Đông Nam Á” - được khẳng định ngày càng rõ trên pháp lý quốc tế, đẩy lùi khái niệm “Biển Nam Hải” của Trung Quốc, với những luận điệu ngạo mạn, độc đoán của bọn bành trướng nước lớn rằng “Việt Nam vốn là thuộc quốc của Trung Hoa cho đến năm 1885”, bị bác bỏ dứt khoát trước những dẫn chứng sử liệu rõ ràng.
Trong năm 2010, các học giả của Trường Đại học Harvard (Hoa Kỳ) đi sâu phát hiện thêm nội dung khoa học của khái niệm “Crony economy” để nhận diện cốt lõi căn cước của chế độ kinh tế-chính trị-văn hóa hiện tại ở Việt Nam. Cụm từ “crony economy” được các học giả Việt Nam trong và ngoài nước tạm dịch là “chế độ phe cánh”, “chế độ nhóm quyền lợi riêng tư”, “chế độ cánh hẩu, tà lọt”, “chế độ mánh mung ăn chia kiểu mafia”,... Sự nhận diện sâu sắc này chĩa đúng trái tim đen của đảng Cộng sản giữa thoái trào và suy sụp không gượng dậy nổi, trước sự khinh miệt của quần chúng đông đảo, đúng vào lúc đang chuẩn bị khai mạc Đại hội XI với một dàn lãnh đạo dự kiến cao tuổi không gây được một ấn tượng nào.
Với những dấu ấn sâu đậm của những danh từ đặc sắc trên đây, năm 2010 sắp qua là một năm bản lề đáng nhớ, năm đấu tranh khá quyết liệt giữa dân chủ và độc đoán, giữa độc lập dân tộc và phụ thuộc bành trướng, giữa công lý và bất công, giữa pháp quyền và đảng quyền.
Cuộc đấu tranh còn gay go, quyết liệt, không bạo lực, đổ máu nhưng luôn đòi hỏi tinh thần bề n bỉ, dấn thân, lòng tin ở chính nghĩa, tinh thần khoa học và quyền phản biện, tranh luận, bắt rễ sâu từ truyền thống dân tộc nhân ái và bất khuất, tiếp sức mạnh mẽ bởi những giá trị văn hóa của thời đại.
Năm 2011 báo hiệu một năm không dễ dàng nhưng mọi tấm lòng yêu nước thương dân có thể hy vọng. Lòng dân đang thay đổi, dân trí về dân chủ đang nâng cao, những giá trị văn hóa của thời đại đang tiếp sức; tuổi trẻ, phụ nữ và trí thức Việt Nam đang thức tỉnh. Mỗi người Việt chúng ta hãy tự mình tỉnh dậy, vẫy gọi nhau hành động vì một nước Việt Nam độc lập đầy đủ, dân chủ thực sự, phát triển bền vững và phồn vinh cho mọi người.


No comments:

Post a Comment