Tuesday, April 6, 2010

Nguyễn Cao Kỳ "Ngày Ấy Bây Giờ" do Troinam.net thực hiện tháng 5, 2010 gồm 31 Phần (01 đến 31), mỗi phần khoảng 10 phút.

1

Nguyen Cao Ky "Ngay ay - Bay gio" - 02  
Nguyen Cao Ky "Ngay ay - Bay gio" - 03 
Nguyen Cao Ky "Ngay ay - Bay gio" - 04
Nguyen Cao Ky "Ngay ay - Bay gio" - 05 

http://www.youtube.com/user/Troinam


Tự do ngôn luận -  Một dân tộc vô cảm - Nguyễn Hưng Quốc
Trong các quyền tự do của con người, điều tôi quan tâm nhất là tự do ngôn luận.
Bởi, một phần, có lẽ tôi là nhà văn; phần khác, quan trọng hơn, theo tôi, không có tự do ngôn luận, rất nhiều quyền tự do khác sẽ trở thành vô nghĩa. Chẳng hạn, có thể nói đến tự do tư tưởng mà lại không có tự do ngôn luận được không? Tư tưởng là cái gì cần được bộc lộ và chia sẻ. Nghĩ ngợi sâu xa đến mấy mà không được quyền mở miệng ra nói với ai thì tư tưởng để làm gì? Ngoài ra, không được tự do ngôn luận liệu có thể có tự do trong văn học nghệ thuật hay trong chính trị được hay không? Chắc chắn là không. Thiếu tự do ngôn luận, trong văn học, người ta chỉ có thể gặp những con vẹt; trong chính trị, chỉ gặp một bầy cừu.

Nhớ, sau năm 1975, quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam bị giới hạn đến độ người ta không những không dám viết thật mà còn không dám nói thật với bạn bè những điều mình nghĩ nữa. Ngay trong giới sinh viên, nói năng bao giờ cũng đầy cảnh giác. Một câu nói đùa, với bạn bè, ngoài hành lang, cũng có thể bị báo cáo và có thể bị mang ra kiểm điểm trong chi đoàn hay chi bộ. Nói năng ngoài các quán cà phê hay quán nhậu lại càng nguy hiểm. Ở đâu cũng có công an nhỏng tai lên rình rập, nghe ngóng. Có lần, vào một tiệm hớt tóc ở Phú Nhuận, tôi thấy ai đó viết hai câu thơ trên bức vách: “Ở đây tai vách mạch rừng / Nói năng cẩn thận, xin đừng ba hoa”.

Nghe nói tình hình ở miền Nam sau 1975, dù sao, cũng còn đỡ hơn ở miền Bắc sau 1954: Thời ấy, người ta không những cẩn thận lời ăn tiếng nói với người lạ, hàng xóm, đồng nghiệp hay với bạn bè mà còn cả với vợ con nữa. Ngay cả vợ cũng có thể tố cáo chồng; con cái cũng có thể tố cáo bố mẹ. Chỉ vì một câu nói không đúng lập trường nào đó.

Sau phong trào đổi mới, tình hình khá hơn nhiều. Lần đầu tiên về lại Việt Nam năm 1996, tôi ngạc nhiên thấy bạn bè mình, cả bạn cũ lẫn bạn mới, vừa khề khà uống bia vừa cười cợt chế độ một cách hể hả. Khác hẳn với ngày trước, lúc tôi chưa vượt biên. Nhưng sự thay đổi chỉ dừng lại ở đó. Ở các quán nhậu. Giữa bạn bè. Cái gọi là tự do ngôn luận ấy chỉ giới hạn ở một hình thức: xuất bản miệng. Nói thì được còn viết thì không. Đó là thứ luật lệ bất thành văn mà hầu như ai cũng biết. Và hầu hết đều dừng lại ở cái giới hạn ấy. Tức tối điều gì ư? Thì cứ chửi toáng lên. Bất mãn điều gì ư? Thì cứ phê bình, chỉ trích thả cửa. Nhưng đừng viết. Nếu viết thì đừng công bố ở đâu cả. Công bố là bị bắt, hay ít nhất, bị trù dập.

Một thứ tự do như vậy không thể gọi được là tự do. Tự do ngôn luận thực sự không thể giới hạn trong hình thức phát biểu: Nó phải bao gồm cả nói, từ nói ở chỗ riêng tư đến những chỗ công cộng, đến viết và công bố, từ trên sách báo đến trên mạng. Tự do ngôn luận thực sự không thể bị giới hạn trong phạm vi đề tài: Nó phải bao gồm quyền tự do phát ngôn về mọi vấn đề, kể cả về chính trị. Tự do ngôn luận thực sự cũng không thể bị giới hạn ở mức độ: Nó phải dung hợp cả sự phê phán và đả kích. Tự do ngôn luận cũng không thể bị giới hạn ở hoạt động: Nó phải bao gồm cả ba yếu tố, từ việc tìm kiếm đến việc tiếp nhận và tham gia phát tán thông tin cũng như ý tưởng.

Với cách nhìn như thế, không ai có thể nói là Việt Nam đã có tự do ngôn luận. Người Việt Nam biết rõ điều đó. Cả thế giới cũng biết rõ điều đó. Kết quả các cuộc điều tra về nhân quyền trên thế giới đều ghi nhận: Việt Nam không hề có tự do ngôn luận.

Báo chí và xuất bản thì đều nằm hết trong tay nhà nước. Nhà nước kiểm soát từ A đến Z. Internet cũng bị kiểm soát. Mới đây, báo cáo của tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters Sans Frontières) nêu tên Việt Nam trong danh sách “những kẻ thù của internet”. Những nước đứng đầu gồm có: Trung Quốc, Việt Nam, Iran, Bắc Hàn, Cuba, Miến Điện, Saudi Arabia, v.v... Trong danh sách ấy, Việt Nam “được” đứng vào vị trí thứ nhì với 17 người bị bắt vì những phát ngôn đòi hỏi tự do trên internet, chỉ đứng sau Trung Quốc nơi có 72 người bị bắt, và trên Iran với 13 người.

Ở đây có hai điều cần ghi nhận:

Thứ nhất, bên cạnh việc bắt bớ, hành động chà đạp lên quyền tự do ngôn luận còn được biểu hiện qua nhiều hình thức khác nữa, chẳng hạn, uy hiếp hoặc sa thải các phóng viên và blogger, hay dựng tường lửa, hay sai hacker đánh sập các trang mạng độc lập.

Thứ hai, ở các nước khác, người ta thường bị bắt vì tuyên truyền chống nhà nước hoặc đòi hỏi tự do và dân chủ, những điều mà nhà nước độc tài không thể nào chấp nhận được. Ở Việt thì khác. Trong số các phóng viên hoặc blogger bị bắt bớ hoặc uy hiếp, cũng có người lên tiếng đòi hỏi đa đảng, nhưng phần lớn đều lên tiếng vì hai mục tiêu khác: chống Trung Quốc và chống tham nhũng. Nói cách khác, ở Việt Nam, chống Trung Quốc và chống tham nhũng đều là những cái tội.

Nói đến “tội” chống Trung Quốc, tự nhiên sực nhớ chuyện ngày xưa. Cuối thập niên 1850, Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Bộ. Theo lời khuyên của một số tướng lãnh, “hòa thì mất ít, đánh thì mất nhiều”, Tự Đức ra lệnh tướng sĩ rút khỏi vùng đất Pháp chiếm đóng, hơn nữa, không được chống phá lại họ. Ai tiếp tục chống Pháp thì bị xem là phạm tội “phản nghịch”. Thời ấy, tương truyền Phan Văn Trị có hai câu thơ thật hay:

"Đứng lại làm chi cho mất công
Vừa đi vừa đái vẽ nên rồng"

À, mà các bạn có thấy là gần đây, có nhiều nhà thơ đái trong thơ lắm không?

“Điềm” gì vậy?

http://www1.voanews.com             Nguyễn Hưng Quốc Blog

---------------------------

Một dân tộc vô cảm

Tôi viết về chính trị như vậy, một số người cho là nhiều. Nhưng dưới mắt bạn bè và đồng nghiệp người Úc, tôi bị xem là người không mấy quan tâm đến chính trị. Ít nhất là không quan tâm bằng họ.
Mà thật. Hầu như tất cả bạn bè tôi, đám giáo sư trong trường, tuy không ai tham gia bất cứ đảng phái nào, vẫn thường xuyên theo dõi mọi biến động chính trị trong nước. Ngày nào cũng đọc báo, nghe đài, xem tivi. Mỗi khi chính phủ hay phe đối lập đưa ra một chính sách mới, họ đều tìm hiểu cặn kẽ, phân tích kỹ lưỡng và bàn tán sôi nổi. Một số người viết bài bình luận. Số khác, đông hơn, viết ý kiến gửi đăng trên báo chí.
Thoạt đầu, tôi rất ngạc nhiên. Nhưng sau, sống và làm việc lâu ở Úc, tôi hiểu ra. Bất cứ chính sách nào của chính phủ cũng đều ít nhiều có ảnh hưởng đến đời sống của ít nhất một thành phần nào đó trong xã hội. Ảnh hưởng một cách rất cụ thể. Đến công ăn việc làm. Đến lương hướng. Đến sinh hoạt. Một ví dụ nhỏ: cách đây trên dưới hai mươi năm, chính phủ Lao Động xem Úc như một phần của châu Á. Ảnh hưởng của cách nhìn ấy hầu như có thể thấy ngay tức khắc. Số tiền tài trợ cho việc giảng dạy ngôn ngữ và văn hoá Á châu tăng vọt. Các dịch vụ xã hội trợ giúp di dân từ châu Á nở rộ. Sau, Liên Đảng (bao gồm đảng Tự Do và đảng Quốc Gia) lên cầm quyền, chính sách thay đổi: tuy về phương diện địa lý, Úc nằm gần châu Á, nhưng về phương diện lịch sử và văn hoá, Úc vẫn thuộc về Tây phương. Ảnh hưởng của quan điểm ấy cũng thấy rất rõ: số tiền tài trợ cho việc giảng dạy Á châu học bị cắt giảm để đầu tư vào việc giảng dạy ngôn ngữ và văn hoá Âu châu. Phân khoa nơi tôi dạy, thoạt đầu có tên là Phân khoa Ngôn ngữ và Á châu học, sau, để đáp ứng sự thay đổi trong chính sách quốc gia, đổi thành Phân khoa Quốc tế học. Bởi vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi hầu hết người Úc đều quan tâm đến những sự thay đổi trong chính sách của nhà nước. Mỗi lần bầu cử, người ta đều đắn đo cân nhắc các chính sách của từng phe trước khi quyết định. Khi cần, họ sẵn sàng xuống đường vận động người khác ủng hộ cho đảng nào có chính sách họ nghĩ là đúng đắn. Tôi xin nhắc lại: tất cả các bạn tôi, như đã nói, đều không tham gia bất cứ đảng phái nào.
Ở Việt Nam thì khác. Đọc báo thì thấy ngay. Thử lấy ba tờ báo mạng nổi tiếng và được xem là có đông độc giả nhất ở Việt Nam làm ví dụ. Trên tờ vnexpress, chẳng hạn, không có cột nào dành riêng cho chính trị cả. Chỉ có, ngoài Trang chủ, các cột: Xã hội, Thế giới, Kinh doanh, Văn hoá, Thể thao, Pháp luật, Đời sống, Khoa học, Vi tính, Ôtô - xe máy, Bạn đọc viết, Tâm sự, Rao vặt và Cười. Tuyệt đối không có chính trị. Trên tờ Dân Trí cũng thế. Cũng, ngoài cột Trang chủ, có các cột: Tin tức - sự kiện, Thế giới, Thể thao, Giáo dục - khuyến học, Giải trí, Nhịp sống trẻ, Tình yêu giới tính, Sức khoẻ, Sức mạnh số, Kinh doanh, Ô tô xe máy, và Chuyện lạ. Cũng không có chính trị. Trên tờ Vietnamnet thì có: Chính trị chiếm một cột nhỏ, bên trong cột Tin tức, bên cạnh các cột Xã hội, Kinh tế - Thị trường, Văn hoá, Quốc tế, Công nghệ thông tin - Viễn thông, Khoa học, Giáo dục và Muôn màu cuộc sống. Những đề tài được đề cập đến trong cái cột gọi là “Chính trị” ấy, thật ra, chỉ là những bản tin nhí nhách về các cuộc họp, tiếp khách, trao giải thưởng, mừng lễ này lễ nọ. Hết.
Trên báo như thế, ngoài đời sống cũng như thế. Qua những lần về nước trước đây, tôi ghi nhận một điều: Cực kỳ hiếm có người nào thực sự quan tâm đến chính trị. Hầu hết đều tập trung vào vấn đề sinh kế, làm giàu và ăn chơi. Trên các bàn nhậu, thỉnh thoảng người ta cũng bàn về chính trị. Nhưng hãy để ý mà xem: tuy nói về chính trị, nhưng người ta lại rất hiếm khi bàn đến các chính sách. Phần lớn chỉ chửi hoặc chỉ kể chuyện tiếu lâm để xỏ xiên. Rồi cười. Cười rất sảng khoái. Chuyện chính trị, do đó, chỉ được xem như một thứ mồi nhấm để việc uống bia hoặc uống rượu thêm phần sôi nổi. Vậy thôi.
Rất nhiều người công khai thừa nhận việc đó: Họ không quan tâm đến chính trị.
Thái độ không quan tâm đến chính trị ấy có bình thường không?
Câu trả lời: Chắc chắn là không. Tuyệt đối không có chút bình thường nào khi cả mấy chục triệu người quay lưng lại chính trị, để mặc cho một số chính trị gia muốn làm gì thì làm, bất kể hay hay dở. Chính trị gia giỏi thì không nói làm gì. Đằng này, giới lãnh đạo Việt Nam càng ngày càng bộc lộ rất nhiều khuyết điểm, trong đó, hai khuyết điểm nổi bật nhất: thiếu năng lực và thiếu trách nhiệm. Đất nước giàu mạnh thì không nói làm gì. Đằng này Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo và là một nước yếu. Chỉ cần chút xíu lương tri, ai cũng thấy tình hình Việt Nam hiện nay đầy những khó khăn và thử thách. Về kinh tế. Về xã hội. Về giáo dục. Về đối ngoại. Đứng trước những khó khăn và thử thách chồng chất ấy, sự thờ ơ dửng dưng của đa số quần chúng tuyệt đối không thể được xem là một dấu hiệu lành mạnh. Nếu không muốn nói, ngược lại, là triệu chứng của bệnh hoạn. Thứ bệnh được nhiều người gọi tên là “mackeno”, mặc-kệ-nó.
Biểu hiện của chứng “mackeno” nhan nhản. Đất nước phát triển, người giàu càng giàu và người nghèo càng nghèo ư? Mặc kệ! Giao thông ngày nào cũng tắc nghẽn ư? Mặc kệ! Tham nhũng tràn lan ư? Mặc kệ! Giáo dục càng lúc càng đi xuống ư? Mặc kệ! Nạn bạo động càng ngày càng hoành hành trong học đường ư? Mặc kệ! Môi trường càng ngày càng ô nhiễm ư? Mặc kệ! Trung Quốc đánh chìm tàu đánh cá Việt Nam ư? Mặc kệ! Giới lãnh đạo ngu dốt và độc tài ư? Mặc kệ!
Tại sao một dân tộc vốn thường xuyên tự hào là yêu nước mà một lúc nào đó bỗng dưng đâm ra thờ ơ dửng dưng một cách lạ lùng như thế?
Nguyên nhân có thể nhiều, nhưng theo tôi, ít nhất hai nguyên nhân này là quan trọng nhất:
Một, điều đó nằm trong chính sách của nhà nước. Chắc chắn đó không phải là một lời xuyên tạc hay vu khống. Hầu như ai cũng biết ở Việt Nam hiện nay có một chủ trương bất thành văn rất rõ: Nói cái gì cũng được, trừ chuyện chính trị; làm cái gì cũng được, trừ việc dính líu đến chính trị. Thanh niên sinh viên xuống đường chống việc xâm lấn lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam của Trung Quốc, giới lãnh đạo xua đuổi, bảo: Đó là chuyện của đảng và nhà nước, để đảng và nhà nước lo! Báo chí được phép đăng tải hầu như mọi thứ, trừ chuyện chính trị và những chuyện có ảnh hưởng đến chính trị. Những gì liên quan đến chính trị đều bị xem là “nhạy cảm”, người có quyền thì né; người không có quyền thì bị cấm. Thành ra, ở Việt Nam hiện nay chỉ có hai hạng người hay bàn đến chính trị: một là những kẻ nịnh bợ; hai là những kẻ bị gọi là phản động. Xuất phát từ thiện chí cũng bị xem là phản động.
Lịch sử dường như đang lặp lại: Trong hai thập niên 1920 và 1930, ở Việt Nam, Pháp cổ suý phong trào vui vẻ trẻ trung khuyến khích thanh niên tham gia vào các trò chơi thể thao và chạy theo thời trang. Những người yêu nước thời đó lên tiếng tố cáo: đó là âm mưu ru ngủ thanh niên để họ không bị cuốn hút vào quỹ đạo chính trị. Ngay cả việc sùng bái Truyện Kiều do Phạm Quỳnh khởi xướng trên Nam Phong cũng bị nhiều nhà nho cách mạng xem là nằm trong âm mưu hiểm độc ấy. Bởi vậy, họ xúm vào đánh Truyện Kiều tơi tả: Thuý Kiều bị gọi là đĩ, “con đĩ Kiều”.
Nhà cầm quyền Việt Nam đang học lại bài học của thực dân Pháp chăng?
Nguyên nhân thứ hai: sự tuyệt vọng. Từ lâu, đảng và nhà nước đã giành mọi quyền quyết định về chính trị. Mọi quyết định ấy đều được diễn ra một cách bí mật. Không ai được quyền tham gia và cũng không ai hay biết gì cả. Lâu dần, người Việt mất hẳn niềm tin là ý kiến của họ có thể có bất cứ đóng góp nào. Mất niềm tin ấy, người ta dừng lại ở một lời than đầy bế tắc: “Cái nước mình nó thế!” Rồi thôi.
Tôi cho chính cái chủ nghĩa mặc-kệ-nó, thứ mackeno-ism ấy, là một trong những chứng bệnh hiểm nghèo nhất của dân tộc ta hiện nay.
Cái bệnh vô tâm và vô cảm.

http://www1.voanews.com             Nguyễn Hưng Quốc Blog

No comments:

Post a Comment