Ed. Oshiro, MPH
(Trần Trúc Lâm chuyển ngữ)
Ed Oshiro hiện về hưu và ngụ tại Mereer Island (thành phố Seattle , tiểu bang Washington ) nguyên là Phụ Tá Giám Đốc Chương Trình Giáo Dục Y Tế của Group Health Cooperatives.
Ba mươi phút sau khi chuyến bay của hãng Hàng Không Việt Nam chở chúng tôi rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhất thuộc thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi nhìn xuống những đồng bằng màu đỏ trơ trụi của xứ Cambodia, tôi và vợ tôi bỗng dưng có một cảm giác kỳ lạ của sự thoải mái và tự do. Hú vía, chúng tôi thực sự đã thoát khỏi những sự sách nhiễu, hăm dọa và tham nhũng thường nhật của các giới chức Việt Nam, và cái gánh nặng đè trên vai trong ba tháng qua chợt trút mất.(Trần Trúc Lâm chuyển ngữ)
Ed Oshiro hiện về hưu và ngụ tại Mereer Island (thành phố Seattle , tiểu bang Washington ) nguyên là Phụ Tá Giám Đốc Chương Trình Giáo Dục Y Tế của Group Health Cooperatives.
Mọi chuyện như bắt đầu từ mùa thu năm ngoái, khi tôi nhận làm quản lý hải ngoại vụ cho Cơ Sở Đông Gặp Tây (East Meets West Foundation) hiện đang trông coi một bệnh xá toàn khoa cho “kẻ nghèo nhất trong đám nghèo” và một cô nhi viện với 125 trẻ em ở ngoại ô thành phố Đà Nẳng, Việt Nam. Tôi đã quyết định chụp lấy cơ hội hưu trí sớm với đầy đủ cấp dưỡng do Group Health đề nghị và về hưu vào đầu tháng Giêng với ý định đi phục vụ tình nguyện khoảng một đến hai năm tại Việt Nam, bắt đầu vào giữa tháng Giêng.
Công tác của tôi là giúp bệnh xá hoạt động được hữu hiệu hơn và hướng dẫn những chương trình về giáo dục y tế công cộng cho bốn làng hẻo lánh. Vợ tôi thì được giao việc ở cô nhi viện như là giáo viên mỹ thuật và dạy Anh ngữ cho các nhân viên.
Một điều báo trước cho những việc sẽ gặp ở trong nước Việt Nam thực ra đã bắt đầu khi chúng tôi bay xuống San Francisco để nhận giấy hộ chiếu trên đường đi Việt Nam. Khi đến San Francisco thì chúng tôi được báo rằng viên chức Bộ Ngoại Giao (Việt Nam ) muốn chúng tôi phải thuê căn phòng của y ở Đà Nẳng với giá 700 đô la mỗi tháng, với sáu tháng tiền nhà đưa trước. Chúng tôi phản đối và y không chịu cấp giấy nhập cảnh nữa, chúng tôi đành phải quay về lại Seattle để chờ Cơ sở tiếp tục thương lượng. Cuối cùng đến tháng Hai, sau khi đồng ý với vụ sắp xếp, trả cho y 4200 đô la, và dấu hộ chiếu cho ba tháng thay vì một năm, chúng tôi bay đi Việt Nam. Khi đến nơi thì căn phòng, hỡi ôi! còn đang sửa chữa và chúng tôi đành ở khách sạn với giá 15 đô la một ngày.
Vừa vào đến Việt Nam thì tất cả đĩa điện toán của chúng tôi đều bị tịch thâu ngay, và mãi đến ba tuần mới được trả sau khi đóng 40 đô la gọi là “lệ phí bảo quản” và có cả khối bản phụ được sao chép (để bán về sau).
Ngày đầu làm việc trong văn phòng, tôi nhắc máy điện thoại để gọi con gái tôi ở Seattle và đã có thể nghe rõ tiếng nhạc quân hành văng vẳng trong máy suốt cuộc điện đàm. Tôi nhắc lại chuyện đó với nhân viên người Việt thì được họ cho biết là công an và quân đội luôn theo dõi nghe trộm mọi cuộc điện đàm. Chúng tôi được khuyến cáo là ngay cả thư từ cũng được mở ra đọc ngang xương, cho nên phải cẩn thận khi viết. Có một lần công an gọi tôi phải đem tờ báo cáo tài chính cuối tháng cho họ xem để họ quyết định cho gởi hay không.
Công tác của tôi là giúp bệnh xá hoạt động được hữu hiệu hơn và hướng dẫn những chương trình về giáo dục y tế công cộng cho bốn làng hẻo lánh. Vợ tôi thì được giao việc ở cô nhi viện như là giáo viên mỹ thuật và dạy Anh ngữ cho các nhân viên.
Một điều báo trước cho những việc sẽ gặp ở trong nước Việt Nam thực ra đã bắt đầu khi chúng tôi bay xuống San Francisco để nhận giấy hộ chiếu trên đường đi Việt Nam. Khi đến San Francisco thì chúng tôi được báo rằng viên chức Bộ Ngoại Giao (Việt Nam ) muốn chúng tôi phải thuê căn phòng của y ở Đà Nẳng với giá 700 đô la mỗi tháng, với sáu tháng tiền nhà đưa trước. Chúng tôi phản đối và y không chịu cấp giấy nhập cảnh nữa, chúng tôi đành phải quay về lại Seattle để chờ Cơ sở tiếp tục thương lượng. Cuối cùng đến tháng Hai, sau khi đồng ý với vụ sắp xếp, trả cho y 4200 đô la, và dấu hộ chiếu cho ba tháng thay vì một năm, chúng tôi bay đi Việt Nam. Khi đến nơi thì căn phòng, hỡi ôi! còn đang sửa chữa và chúng tôi đành ở khách sạn với giá 15 đô la một ngày.
Vừa vào đến Việt Nam thì tất cả đĩa điện toán của chúng tôi đều bị tịch thâu ngay, và mãi đến ba tuần mới được trả sau khi đóng 40 đô la gọi là “lệ phí bảo quản” và có cả khối bản phụ được sao chép (để bán về sau).
Ngày đầu làm việc trong văn phòng, tôi nhắc máy điện thoại để gọi con gái tôi ở Seattle và đã có thể nghe rõ tiếng nhạc quân hành văng vẳng trong máy suốt cuộc điện đàm. Tôi nhắc lại chuyện đó với nhân viên người Việt thì được họ cho biết là công an và quân đội luôn theo dõi nghe trộm mọi cuộc điện đàm. Chúng tôi được khuyến cáo là ngay cả thư từ cũng được mở ra đọc ngang xương, cho nên phải cẩn thận khi viết. Có một lần công an gọi tôi phải đem tờ báo cáo tài chính cuối tháng cho họ xem để họ quyết định cho gởi hay không.
Vài ngày sau khi tôi bắt đầu làm việc, thì cô kế toán viên bay đi Florida để làm đám cưới với anh bác sĩ Mỹ mà cô đã quen trong thời gian anh ta phục vụ tình nguyện cho bệnh xá. Khi chúng tôi rao tuyển người thay thế thì viên Bộ Trưởng chuyển đến một danh sách ứng viên mà y muốn chúng tôi thâu dụng. Chúng tôi bác ngay vì họ không biết tí gì vế kế toán và chẳng có chút khiếu năng gì về Anh ngữ. Chúng tôi tuyển được một cô có bằng kế toán và nói giỏi tiếng Anh, nhưng viên Bộ trưởng và Sở Công An lại trì hoản việc chuẩn y thâu dụng, cho mãi đến khi tôi nghĩ rằng, có chút tiền đút lót hoặc cô ta chịu chia một phần lương của cô.
Chúng tôi được biết rằng tất cả nhân viên người Việt đều buộc phải đóng một phần tiền lương cho công an, các viên chức nhà nước, đảng viên, v.v... Đã mấy lần công an đến văn phòng chúng tôi hạch hỏi vì sao chúng tôi không dùng người của họ. Bất ngờ có một bác sĩ người Việt lại nộp đơn xin làm kế toán bởi vì anh đã thất nghiệp đến hơn 5 năm nay. Quả có hàng trăm bác sĩ thất nghiệp mặc dù họ thuộc hạng lao động có lương thấp nhất ở Việ Nam ... 30 đô la một tháng. Tôi chẳng thể nào hiểu được vì sao lại có quá nhiều bác sĩ thất nghiệp tại Việt Nam . Tôi được nghe kể rằng họ buộc phải đăng ký quỹ 1,500 đô la để được thực tập và lấy kinh nghiệm ở bệnh viện sau khi học xong. Không có kinh nghiệm ở bệnh viện là thất nghiệp. Tôi lại được biết có một sự kỳ thị nặng nề đối với dân trong Nam , đặc biệt là những người đã từng phục vụ cho chế độ cũ. Hầu hết những bác sĩ thất nghiệp mà chúng tôi đã gặp là dân miền Nam .
Trong phần họp định hướng tại Hoa Kỳ, chúng tôi được báo cho biết rằng các bác sĩ tại bệnh xá làng Hòa Bình rất lười và ù lì, vì họ chỉ biết có một điều là viết toa cho thuốc bổ sinh tố. Sau khi làm việc với họ vài ngày, tôi nhận thấy họ rất thông minh, rất ham học để hành nghề tốt và sẵn sàng đón nhận những sự giúp đỡ để trở thành thầy thuốc giỏi. Điều đáng tiếc là sự đào tạo của họ tệ quá, cho nên họ độc chỉ giỏi viết toa sinh tố cho mọi bệnh trạng.
Mỗi ngày trong một tuần, các bác sĩ đi khám bệnh ở một trong những làng lân cận. Tôi đi theo họ vài lần và nhận thấy rằng sinh tố được cấp cho mọi chứng: sốt rét, mù lòa, sốt nóng, bệnh ký sinh trùng, đái ra máu, ỉa chảy v.v... Họ đâu có thể làm gì khác hơn được? Họ chẳng có món thuốc nào ngoài vài lọ Ampicilin. Mấy bác sĩ bảo rằng ít ra cũng nên cho bệnh nhân món gì để đem về nhà, và họ cấp sinh tố. À ra thế! Trụ sinh thì ai cũng có thể mua được chẳng cần toa cho nên nhà nào cũng có vài lọ trữ sẵn. Ngay cả thông dịch viên của tôi cũng dùng trụ sinh cho nhức đầu, cảm, tiêu chảy, đau lưng, hoặc khi cô ta cảm không thấy được khỏe.
Một bác sĩ Sản Phụ Khoa từ San Diego đã làm việc vài ngày tại bệnh xá và bảo cho các bác sĩ cách sử dụng mỏ vịt đế khám âm đạo. Năm sau, ông ta quay lại và bất bình vì các bác sĩ không dùng mỏ vịt. Ông ta báo cáo với Ban Quan Trị Cơ Sở Đông Gặp Tây ở San Francisco rằng các bác sĩ ở bệnh xá ù lì và lười biếng. Tôi báo cáo về Ban Quản Trị chất vấn sự giám định của ông ta. Các bác sĩ tại bệnh xá không thể nào học khám và chữa bệnh phụ khoa trong vài ngày được, và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm chỉ làm được dăm ba xét nghiệm đơn giản mà thôi. Cho dù họ có chuẩn được điều gì đi nữa thì cũng chẳng có thuốc men và dụng cụ để điều trị. Tại sao phải đi học những chuyện mà dù có biết mình cũng đành bó tay? Tôi cảm thấy rằng bác sĩ Mỹ tình nguyện làm việc tại bệnh xá làng Hòa Bình thiếu nhạy bén và làm hại nhiều hơn là giúp đỡ.
Sau khi ổn định công việc, tôi liền gặp viên Bộ trưởng Y Tế (Việt Cộng) để đề nghị xúc tiến dự án hướng dẫn y tế công cộng cho bốn làng, và ông ta cũng phấn khởi về ý kiến đó. Ông ta nhận bản dự án đó và bảo rằng ông ta sẽ thảo luận với Ủy Ban Nhân Dân rồi cho tôi biết sau, hai tuần sau, ông ta gửi cho chúng tôi một lá thư nói rằng bản dự án đó đã được chấp thuận và Bộ sẽ thi hành, nhưng họ lại muốn tôi tài trợ 25 ngàn đô la. Tôi trả lời rằng tôi không có tiền mà chỉ có sự hiểu biết, thời giờ và lòng nhiệt thành muốn huấn luyện và làm việc với các nhân viên y tế mà thôi, nhưng họ chẳng tha thiết mấy đến sự tham gia của tôi – mà chỉ nghĩ đến tiền của tôi thôi. Tôi không được mời trở lại Bộ Y Tế nữa.
Khi tôi đi thăm ngôi làng đầu tiên để lượng định về y tế thì tôi được gặp Chủ Tịch Nhân Dận xã và y dẫn tôi đi thăm những gia đình nghèo nhất. Tại mỗi nhà y đòi tôi giúp cho những món mà gia đình đó cần như một mái nhà mới, tiền mua gạo, áo quần, xe lăn v.v... Đến khi tôi nhắc đi nhắc lại rằng tôi đến đây không phải để cho tiền, y liền bảo thông dịch viên dẫn tôi ra khỏi làng ngay.
Chúng tôi được biết rằng tất cả nhân viên người Việt đều buộc phải đóng một phần tiền lương cho công an, các viên chức nhà nước, đảng viên, v.v... Đã mấy lần công an đến văn phòng chúng tôi hạch hỏi vì sao chúng tôi không dùng người của họ. Bất ngờ có một bác sĩ người Việt lại nộp đơn xin làm kế toán bởi vì anh đã thất nghiệp đến hơn 5 năm nay. Quả có hàng trăm bác sĩ thất nghiệp mặc dù họ thuộc hạng lao động có lương thấp nhất ở Việ Nam ... 30 đô la một tháng. Tôi chẳng thể nào hiểu được vì sao lại có quá nhiều bác sĩ thất nghiệp tại Việt Nam . Tôi được nghe kể rằng họ buộc phải đăng ký quỹ 1,500 đô la để được thực tập và lấy kinh nghiệm ở bệnh viện sau khi học xong. Không có kinh nghiệm ở bệnh viện là thất nghiệp. Tôi lại được biết có một sự kỳ thị nặng nề đối với dân trong Nam , đặc biệt là những người đã từng phục vụ cho chế độ cũ. Hầu hết những bác sĩ thất nghiệp mà chúng tôi đã gặp là dân miền Nam .
Trong phần họp định hướng tại Hoa Kỳ, chúng tôi được báo cho biết rằng các bác sĩ tại bệnh xá làng Hòa Bình rất lười và ù lì, vì họ chỉ biết có một điều là viết toa cho thuốc bổ sinh tố. Sau khi làm việc với họ vài ngày, tôi nhận thấy họ rất thông minh, rất ham học để hành nghề tốt và sẵn sàng đón nhận những sự giúp đỡ để trở thành thầy thuốc giỏi. Điều đáng tiếc là sự đào tạo của họ tệ quá, cho nên họ độc chỉ giỏi viết toa sinh tố cho mọi bệnh trạng.
Mỗi ngày trong một tuần, các bác sĩ đi khám bệnh ở một trong những làng lân cận. Tôi đi theo họ vài lần và nhận thấy rằng sinh tố được cấp cho mọi chứng: sốt rét, mù lòa, sốt nóng, bệnh ký sinh trùng, đái ra máu, ỉa chảy v.v... Họ đâu có thể làm gì khác hơn được? Họ chẳng có món thuốc nào ngoài vài lọ Ampicilin. Mấy bác sĩ bảo rằng ít ra cũng nên cho bệnh nhân món gì để đem về nhà, và họ cấp sinh tố. À ra thế! Trụ sinh thì ai cũng có thể mua được chẳng cần toa cho nên nhà nào cũng có vài lọ trữ sẵn. Ngay cả thông dịch viên của tôi cũng dùng trụ sinh cho nhức đầu, cảm, tiêu chảy, đau lưng, hoặc khi cô ta cảm không thấy được khỏe.
Một bác sĩ Sản Phụ Khoa từ San Diego đã làm việc vài ngày tại bệnh xá và bảo cho các bác sĩ cách sử dụng mỏ vịt đế khám âm đạo. Năm sau, ông ta quay lại và bất bình vì các bác sĩ không dùng mỏ vịt. Ông ta báo cáo với Ban Quan Trị Cơ Sở Đông Gặp Tây ở San Francisco rằng các bác sĩ ở bệnh xá ù lì và lười biếng. Tôi báo cáo về Ban Quản Trị chất vấn sự giám định của ông ta. Các bác sĩ tại bệnh xá không thể nào học khám và chữa bệnh phụ khoa trong vài ngày được, và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm chỉ làm được dăm ba xét nghiệm đơn giản mà thôi. Cho dù họ có chuẩn được điều gì đi nữa thì cũng chẳng có thuốc men và dụng cụ để điều trị. Tại sao phải đi học những chuyện mà dù có biết mình cũng đành bó tay? Tôi cảm thấy rằng bác sĩ Mỹ tình nguyện làm việc tại bệnh xá làng Hòa Bình thiếu nhạy bén và làm hại nhiều hơn là giúp đỡ.
Sau khi ổn định công việc, tôi liền gặp viên Bộ trưởng Y Tế (Việt Cộng) để đề nghị xúc tiến dự án hướng dẫn y tế công cộng cho bốn làng, và ông ta cũng phấn khởi về ý kiến đó. Ông ta nhận bản dự án đó và bảo rằng ông ta sẽ thảo luận với Ủy Ban Nhân Dân rồi cho tôi biết sau, hai tuần sau, ông ta gửi cho chúng tôi một lá thư nói rằng bản dự án đó đã được chấp thuận và Bộ sẽ thi hành, nhưng họ lại muốn tôi tài trợ 25 ngàn đô la. Tôi trả lời rằng tôi không có tiền mà chỉ có sự hiểu biết, thời giờ và lòng nhiệt thành muốn huấn luyện và làm việc với các nhân viên y tế mà thôi, nhưng họ chẳng tha thiết mấy đến sự tham gia của tôi – mà chỉ nghĩ đến tiền của tôi thôi. Tôi không được mời trở lại Bộ Y Tế nữa.
Khi tôi đi thăm ngôi làng đầu tiên để lượng định về y tế thì tôi được gặp Chủ Tịch Nhân Dận xã và y dẫn tôi đi thăm những gia đình nghèo nhất. Tại mỗi nhà y đòi tôi giúp cho những món mà gia đình đó cần như một mái nhà mới, tiền mua gạo, áo quần, xe lăn v.v... Đến khi tôi nhắc đi nhắc lại rằng tôi đến đây không phải để cho tiền, y liền bảo thông dịch viên dẫn tôi ra khỏi làng ngay.
Ở một làng khác, các viên chức đòi tôi phải cấp một ngân khoản để xây một ngôi chợ mới, và khi họ biết tôi không thể làm được, họ bắt giữ tôi lại tại chỗ rồi ra lệnh cấm tôi rời khỏi trụ sở ủy ban. Đêm đó tôi bị buộc phải ngủ trên sàn gỗ bẩn thỉu với một mảnh mền rách, và một tên an ninh nằm ngủ bên cạnh canh phòng tôi trốn. Cho thêm phần khốn khổ, tên an ninh này lại bị cụt tay vì mìn, y đặt cánh tay cụt lên bụng tôi suốt đêm mà ngủ. Còn tôi thì làm sao mà ngủ được, nằm nghĩ ngợi lung tung, mấy ai tin được rằng tôi lại ngủ trên sàn nhà một văn phòng đảng Cộng Sản, cạnh một tên công an Cộng Sản, mà cánh tay cụt của hằn lại đặt trên bụng tôi! Đó là một trong những đêm kinh dị và hãi hùng nhất trong đời. Tôi cứ ngỡ mình bị ác mộng.
Vì tôi trú trong khách sạn nên phải đi ăn hiệu. Chỉ có một nơi mà chúng tôi và hầu hết các du khách đến ăn mà không sợ bệnh là nhà hàng mang tên Christies. Mỗi đêm chúng tôi gặp nhóm Thủy Quân Lục Chiến và quân nhân Mỹ đến Việt Nam tìm kiếm lính mất tích trong cuộc chiến (MIA’s). Họ bảo rằng mỗi làng đều có mánh khóe làm ăn trong vụ này. Chức sắc ở làng có thể báo cáo là đã chôn hai hay ba xác lính Mỹ ngoài ruộng. Thế là Hoa Kỳ phải mất khoảng 10 ngàn đô la cho việc đào xới và mướn phu phen địa phương.
Các giới chức Mỹ mà tôi chuyện trò bảo rằng từ năm 1991, họ chẳng tìm ra cái gì ráo và cũng chẳng mong mỏi tìm thêm cái gì khác. Họ được yêu cầu trú tại khách sạn của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam với giá 75 đô la một đêm và phải thuê phi cơ trực thăng chở họ đến các làng, mà giá của một giờ bay trực thăng là 750 đô la. Có khoảng 30 quân nhân Hoa Kỳ tìm kiếm MIAs tại Đà Nẳng và ở mỗi thành phố lớn đều có một nhóm như vây. Dĩ nhiên là Hoa Kỳ tốn hàng triệu đô la vào túi các viên chức người Việt!
Sau hai tháng rõ ràng là chẳng ai cần đến chúng tôi tại Việt Nam . Cô nhi viện thì đã được Chính Phủ Hoa Kỳ tài trợ dồi dào và nhân viên Việt Nam thì làm việc xuất sắc. Trẻ em học ở trường nhà nước, được dạy nghề mộc, may vá, điện toán, v.v... và một bác sĩ toàn thời gian chăm sóc sức khỏe cho chúng. Chúng có cả sân bóng rổ, bóng bàn, máy truyền hình, mày chiếu hình, xe đạp, máy điện toán, một nông trại trồng rau, và chúng nuôi gà và lợn để sinh lợi. Ai cũng biết rằng chúng sống khá hơn đại đa số trẻ con khác ở Việt Nam ! Tôi đã tìm cách tăng lương cho tất cả các bác sĩ và nhân viên (Việt Nam) tại bệnh xá từ 30 đô la đến 50 đô la mỗi tháng. Nhà cầm quyền lại đòi rằng ai cũng được trả đồng hạng dù là bác sĩ hay y công.
Tôi cũng đã giúp vào một chương trình phát triển dài hạn giáo dục liên tục cho các bác sĩ. Một bác sĩ tim mạch ở Nhật chịu đỡ đầu hàng năm, trong nhiều năm về sau, cho một bác sĩ của bệnh xá luân phiên qua tu học tại bệnh viện Okasa khoảng sáu tháng. Người đầu tiên đi Osaka đã rời hồi tháng Sáu. Tôi cũng đã bắt liên lạc với bệnh viện Huế xin các bác sĩ của bệnh viện thực tập và chúng tôi chịu trả tiền phí tổn huấn luyện. Tôi đã đệ trình dự án này với Ban Quản Trị Cơ Sở Đông Gặp Tây vào ngày công tác cuối cùng của tôi ở Việt Nam . Hi vọng rằng Ban Quản Trị sẽ biểu quyết tán đồng chương trình này. Tôi cảm thấy quá rẻ để huấn luyện một bác sĩ với giá 1500 đô la.
Vài tuần sau khi đến Đà Nẳng, viên chức Bộ Ngoại Giao đòi thêm tiền để dứt điểm việc tu bổ căn phòng và mua đồ bày biện. Nhưng chúng tôi được biết rằng một bác sĩ Việt Nam kiếm được 30 đô la một tháng và đã trả, có lẽ từ 10 đến 15 đô la tiền thuê căn phòng như thế nên chúng tôi đã lịch sự phất lờ đòi hỏi thêm tiền của y. Y bèn trở mặt chèn ép, đòi chúng tôi phải báo cáo trước chi tiết lộ trình mỗi hai tuần, không cứu xét yêu cầu gia hạn hộ chiếu và làm khó dễ các nhân viên người Việt của bệnh xá.
Ba tháng sau khi đến Việt Nam viên chức Bộ Ngoại Giao bảo rằng chúng tôi có thể vào ở được rồi, và chúng tôi chỉ trú – có mỗi một đêm. Căn phòng chỉ được tu sửa nửa chừng với dây điện còn lòng thòng từ trần nhà, tường được sơn một phần, ống nước chưa được nối vào, không có bàn ghế và gián thì ôi thôi! bò lổ ngổn khắp nơi. Chỉ trong mấy phút mà tôi xài hết một lọ xịt côn trùng và sàn nhà đầy la liệt cả dán dài khoảng 2 đốt tay đang nằm ngửa ngo ngoe.
Chúng tôi dọn trở lại khách sạn sau đúng một đêm. Viên chức Bộ Ngoại Giao rất bực dọc và gay gắt bảo chúng tôi nên rời khỏi nước nếu không hài lòng. Lần đầu tiên chúng tôi cảm thấy sợ hãi, chúng tôi biết rằng y có thể bỏ tù chúng tôi hoặc dàn cảnh một tai nạn mà chẳng ai có thể làm gì được.
Biết rõ rằng chẳng ai muốn và cần đến chúng tôi tại Việt Nam, sự đóng góp của chúng tôi cũng nhỏ nhoi, và có một sự đe dọa đến an ninh của chúng tôi, chúng tôi quyết định rời khỏi Việt Nam. Chúng tôi cũng bị dằn vặt bời quyết định này bởi vì chúng tôi đã đến và mến yêu trẻ mồ côi, những người làm việc chung và cái bệnh xá làng Hòa Bình. Chúng tôi mang theo một tình cảm rất nồng nàn đối với dân Việt, đối với đất nước tuyệt đẹp này, và mong một ngày nào đó sẽ trở lại để hoàn tất những công tác đã phát khởi.
Một ngày kia, cái thế hệ lãnh đạo hiện nay sẽ trao quyền lại và Việt Nam sẽ vươn mình như con bướm sặc sỡ của vùng Đông Nam Á.
Vì tôi trú trong khách sạn nên phải đi ăn hiệu. Chỉ có một nơi mà chúng tôi và hầu hết các du khách đến ăn mà không sợ bệnh là nhà hàng mang tên Christies. Mỗi đêm chúng tôi gặp nhóm Thủy Quân Lục Chiến và quân nhân Mỹ đến Việt Nam tìm kiếm lính mất tích trong cuộc chiến (MIA’s). Họ bảo rằng mỗi làng đều có mánh khóe làm ăn trong vụ này. Chức sắc ở làng có thể báo cáo là đã chôn hai hay ba xác lính Mỹ ngoài ruộng. Thế là Hoa Kỳ phải mất khoảng 10 ngàn đô la cho việc đào xới và mướn phu phen địa phương.
Các giới chức Mỹ mà tôi chuyện trò bảo rằng từ năm 1991, họ chẳng tìm ra cái gì ráo và cũng chẳng mong mỏi tìm thêm cái gì khác. Họ được yêu cầu trú tại khách sạn của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam với giá 75 đô la một đêm và phải thuê phi cơ trực thăng chở họ đến các làng, mà giá của một giờ bay trực thăng là 750 đô la. Có khoảng 30 quân nhân Hoa Kỳ tìm kiếm MIAs tại Đà Nẳng và ở mỗi thành phố lớn đều có một nhóm như vây. Dĩ nhiên là Hoa Kỳ tốn hàng triệu đô la vào túi các viên chức người Việt!
Sau hai tháng rõ ràng là chẳng ai cần đến chúng tôi tại Việt Nam . Cô nhi viện thì đã được Chính Phủ Hoa Kỳ tài trợ dồi dào và nhân viên Việt Nam thì làm việc xuất sắc. Trẻ em học ở trường nhà nước, được dạy nghề mộc, may vá, điện toán, v.v... và một bác sĩ toàn thời gian chăm sóc sức khỏe cho chúng. Chúng có cả sân bóng rổ, bóng bàn, máy truyền hình, mày chiếu hình, xe đạp, máy điện toán, một nông trại trồng rau, và chúng nuôi gà và lợn để sinh lợi. Ai cũng biết rằng chúng sống khá hơn đại đa số trẻ con khác ở Việt Nam ! Tôi đã tìm cách tăng lương cho tất cả các bác sĩ và nhân viên (Việt Nam) tại bệnh xá từ 30 đô la đến 50 đô la mỗi tháng. Nhà cầm quyền lại đòi rằng ai cũng được trả đồng hạng dù là bác sĩ hay y công.
Tôi cũng đã giúp vào một chương trình phát triển dài hạn giáo dục liên tục cho các bác sĩ. Một bác sĩ tim mạch ở Nhật chịu đỡ đầu hàng năm, trong nhiều năm về sau, cho một bác sĩ của bệnh xá luân phiên qua tu học tại bệnh viện Okasa khoảng sáu tháng. Người đầu tiên đi Osaka đã rời hồi tháng Sáu. Tôi cũng đã bắt liên lạc với bệnh viện Huế xin các bác sĩ của bệnh viện thực tập và chúng tôi chịu trả tiền phí tổn huấn luyện. Tôi đã đệ trình dự án này với Ban Quản Trị Cơ Sở Đông Gặp Tây vào ngày công tác cuối cùng của tôi ở Việt Nam . Hi vọng rằng Ban Quản Trị sẽ biểu quyết tán đồng chương trình này. Tôi cảm thấy quá rẻ để huấn luyện một bác sĩ với giá 1500 đô la.
Vài tuần sau khi đến Đà Nẳng, viên chức Bộ Ngoại Giao đòi thêm tiền để dứt điểm việc tu bổ căn phòng và mua đồ bày biện. Nhưng chúng tôi được biết rằng một bác sĩ Việt Nam kiếm được 30 đô la một tháng và đã trả, có lẽ từ 10 đến 15 đô la tiền thuê căn phòng như thế nên chúng tôi đã lịch sự phất lờ đòi hỏi thêm tiền của y. Y bèn trở mặt chèn ép, đòi chúng tôi phải báo cáo trước chi tiết lộ trình mỗi hai tuần, không cứu xét yêu cầu gia hạn hộ chiếu và làm khó dễ các nhân viên người Việt của bệnh xá.
Ba tháng sau khi đến Việt Nam viên chức Bộ Ngoại Giao bảo rằng chúng tôi có thể vào ở được rồi, và chúng tôi chỉ trú – có mỗi một đêm. Căn phòng chỉ được tu sửa nửa chừng với dây điện còn lòng thòng từ trần nhà, tường được sơn một phần, ống nước chưa được nối vào, không có bàn ghế và gián thì ôi thôi! bò lổ ngổn khắp nơi. Chỉ trong mấy phút mà tôi xài hết một lọ xịt côn trùng và sàn nhà đầy la liệt cả dán dài khoảng 2 đốt tay đang nằm ngửa ngo ngoe.
Chúng tôi dọn trở lại khách sạn sau đúng một đêm. Viên chức Bộ Ngoại Giao rất bực dọc và gay gắt bảo chúng tôi nên rời khỏi nước nếu không hài lòng. Lần đầu tiên chúng tôi cảm thấy sợ hãi, chúng tôi biết rằng y có thể bỏ tù chúng tôi hoặc dàn cảnh một tai nạn mà chẳng ai có thể làm gì được.
Biết rõ rằng chẳng ai muốn và cần đến chúng tôi tại Việt Nam, sự đóng góp của chúng tôi cũng nhỏ nhoi, và có một sự đe dọa đến an ninh của chúng tôi, chúng tôi quyết định rời khỏi Việt Nam. Chúng tôi cũng bị dằn vặt bời quyết định này bởi vì chúng tôi đã đến và mến yêu trẻ mồ côi, những người làm việc chung và cái bệnh xá làng Hòa Bình. Chúng tôi mang theo một tình cảm rất nồng nàn đối với dân Việt, đối với đất nước tuyệt đẹp này, và mong một ngày nào đó sẽ trở lại để hoàn tất những công tác đã phát khởi.
Một ngày kia, cái thế hệ lãnh đạo hiện nay sẽ trao quyền lại và Việt Nam sẽ vươn mình như con bướm sặc sỡ của vùng Đông Nam Á.
Monday May 4, 2009
Nguồn: Du Lam's blog
* * *
Nguyên tác:
GOOD-BYE VIETNAM
by Ed Oshiro, MPH (Master of Public Health)
Thirty minutes after our Vietnam Airline flight departed from Tan Son Nhut airport in Ho Chi Minh City , we looked down upon the denuded red plains and my wife and I instantaneously felt an incredible sense of relief and freedom. We were finally free from the daily harassment, intimidation and greed of the Vietnamese officials and we could actually feel the weight of the last three months lift off our shoulders.
It all began last fall when I was accepted as the overseas manager for the East Meets West Foundation which operated primary care clinic for the "poorest of the poor" and an orphanage for 125 children on the outkirts of Da Nang, Vietnam. I had decided to take advantage of the early retirement package offered by Group Health and retired in January with the intention of volunteering in Vietnam for a year or two, beginning in mid-January. My mission was to help the clinic become more efficient and effective and to conduct pilot public health education programs in four remote villages. My wife was assigned to work with the orphanage as an art and recreation instructor, and to teach English to the staff.
A preview of what we were to experience in country actually began when we flew to San Francisco to pick up our visa on our way to Vietnam . Upon our arrival in San Francisco , we were advised that the Foreign Minister, who issues the visas, wanted us to rent his appartment in Da Nang for $700 a month, with a six month advance payment. We objected, he refused to issue the visas, so we return to Seattle while the Foundation continued the negotiations. Finally, in February, we agreed to the arrangement, paid him $4200, and with a 3 month instead of a 12-month visa, flew to Vietnam . When we arrived, the apartment, of course, still being renovated so we were compelled to stay in a hotel at $45 a day. Upon entering Vietnam, all of our computer discs were cofiscated and only after paying a $40 "handling fee" and copies had been made (for later resale) were they returned to us three weeks later.
On our first day in the office, I picked up the telephone to call my daughter in Seattle and noticed that martial music could be heard in the background during our conversation. I later mentioned that to the Vietnamese staff and they stated the police and military were listening in on all of our telephone calls. We were also warned that our letters were opened and read by the government, so we had to be careful what we wrote. Once, I was required to take a month-end financial report to the police and they decided whether it should be sent off or not.
A few days after we began working in the office, the Vietnamese accountant left for Florida to marry an American doctor she had met when he came to Da Nang to volunteer at the clinic. When we announced the position, the minister sent us candidates who had no accounting training nor English language skills and hired a certified accountant who spoke fluent English. The Minister and the Security Police delayed approval of the new employee, untill, we suspect, some money changed hands or she agreed to kick back a percentage of her salary. We were informed that all the Vietnamese employees were required to pay the police, government offcials, party member, ect, a portion of their salary. The Security Police came to our office to demand, several times, why we refused to hire their candidates.
Incidentally, a Vietnamese physician applied for the accounting job because he had been unemployed for over five years. Apparently, there were hundreds of doctors that were unemployed in spite of the fact that they are some of the lowest paid workers in Vietnam ... $30 a month. I never learned why there were so many unemployed doctors. I was told that they had to pay upwards of $1500 to get practical training and experience in a hospital after they completed their training. Without the training, they were unemployable. I also became aware that there was tremendous discrimination against the South Vietnamese, especially these whose family members supported the defeated government. Most of the unemployed doctors we met were South Vietnamese.
During my orientation in the States, I was warned that the doctors at the Peace Village Clinic were lazy and unmotivated, and only knew how to prescribe vitamins. After spending a few days with the doctors, I found them to be very intelligent, very willing to learn to practice good medicine and were eager to receive any assistance that would enable them to become good practitioners. Unfortunately, their medical training was so poor and inadequate that they were only qualified to prescribe vitamins for every affliction. One day a week, the doctors visited one of the surrounding villages and provided care to the people. I accompanied them on several visits and noted that vitamins were precribed for every ailment, malaria, blindness, fevers, parasites, blood in the urine, diarrhea, ect. What else could they do? They didn't have any other drugs except a few bottles of Ampicillin. The doctors claim that they had to give the patients something to take home so they prescribed vitamins. Made sense to me. Antibiotics may be purchased over the counter so every Vietnamese already had several bottles at home. My translater took antibiotics for headaches, colds, diarrhea, backache, and when she just was not feeling well.
An OB/GYN doctor from San Diego spent a few days at the clinic and showed the doctors how to use a vaginal speculum. A year later, he returned and was very upset that the doctors were not using the speculum and complained to the East Meets West Foundation Board in San Francisco that the doctors were unmotivated and lazy. My report to the Board questioned his assessment. The doctors could not be trained in diagnose and treat gynecological diseases in a few days and the lab tech was only able to do very simple tests. Even if they did, find something, there were no drugs or equipment to treat the problem. Why look for something if you can't do anything about it? I felt that some of the American doctors who volunteered at the Peace Village Clinic were very insensitive and did more harm than good.
As soon as I had settled in, I met with the Minister of Health with a proposal to conduct a pilot public health project in four villages and he seemed to be very enthusiastic about the idea. He accepted the proposal and informed me that he would discuss it with the People's Commitee and get back to me. Two weeks later, he sent me a letter stating that the project was approved and that the Ministry would implement it, but they wanted me to provide them with $20,000. I stated that I did not have the money, only the knowledge, time and willingness to do the training and work with the health workers, but they were not interested in my participation - only my money. I was not invited back to the Ministry.
When I visited my first village to do a health assessment. I was met by the Director of the People's Committee who took me around to the homes of the poorest families. At each farm house, he requested that I pay for something that the family needed, for example: a new roof, a new well, a new house, money for rice, clothes, wheel chair, etc. When I stated over and over that I was not there to give them money, he finally told my translator to get me out of the village. At another village, the officials demanded that I provide them with funds to build a new school and when they realized that I would not provide the funds, I was immediately put under house arrest and ordered not to leave the grounds of the People's Committe office. That night, I was ordered to sleep on the dirty wood floor of the office with only a tattered blanket, and one of the security police officer slept next to me to assure that I did not leave the building. To add to my misery, the officer, whose hand had been blown off by a land mine, place his stump on my stomatch all night while he slept. I, of couse, did not sleep a wink and keep thinking who would ever believe that I would be sleeping on the floor of a Communist party office, next to a Viet Cong policeman whose handless arm rested on my belly! It was one of strangest and scarrest night I have experienced. I kept wondering if I was having a nightmare.
Because we were living in a hotel, we had to eat our meals in restaurants. The only place we and most visitors could eat in Da Nang without getting sick was a restaurant called Christies. Every night, we met American marrines and soldiers who were in Vietnam searching for MIA's. They stated that every village had a scam in operation. The village leaders would claim to have burried in the rice fields two or three Americans who had died during the war. It would cost the American $10,000 to dig in the fields and to hire local workers. The officers we talked to claimed that since 1991 they had found nothing and they didn't expect to find anything. They were required to stay in Vietnam Army Hotel for $75 a night and hire the Vietnam helicopter to take them to the village. We were informed that it cost $750 an hour for the helicopter ride. There were about 30 US military personel looking for MIA's in Da Nang and every major city had a silmilar team. It is coating the US milion of dollars and the Vietnamese are laughing all the way to the bank!
After a couple of months, it became very evident to us that we were not needed in VietNam . The orphanage was being very adequately funded by the US Government and the Vietnamese staff was excellent. The kids were attended in the government school, being provided with training in carpentry, sewing, computer, etc ... and a full time physician took care of the medical needs of the children. They had a basketball court, ping-pong tables, television, videos, bicycles, computers, a vegetable farm, and they raised chickens and pigs for income. The Vietnamese claimed that these chidren, in fact, lived better than all other children in Vietnam .
I was able to raise the salaries of all the doctors, and the rest of clinic staff from $30 to $50 a month. The government required every employee to be paid the same amount whether he/she were a doctor or janitor. I also assisted in development of a long term continuing education program for the doctors. A cadiologist from Japan is sponsoring each year, one doctor from the Peace Village Clinic, who will spend six months in her hospital in Osaka for next few years. The first doctor left Osaka in June. I also opened communication with the Hue hospital to accept our doctors into their resisdency program with us paying for the training. I presented this proposal to East Meets West Foundation Board on my last day in the country. Hopefully, the Boad will vote favourably on this program. I feel that it is very inexpensive to train the doctor for $1600.
Several weeks after we arrived in Da Nang , the Forein Minister demanded more money to finish renovating the apartment to purchase furniture. We were aware of this fact that a Vietnamese doctor makes $30 a month and he would pay, perhaps $10-$15 a month to rent that apartment so we politely ignore his demand for more money. He tightened the screws by requiring us to to provide him with a detailed itinerary as to where we would be every hour, two weeks in advance, by holding up our request for a visa extention and by intimidating our Vietnamese office staff. Three months after we arrived, the Foreign Minister said we could move into the house and we did - for one night. It was only partially completed with electric wires dangling from the ceiling, walls partially painted, plumbing unconnected, no furniture and cockroaches crawling everywhere. In a few minutes, I used up a can of insecticide and the floor was covered with two-inch long cockroaches lying on their backs, leg flailing away. We moved back to the hotel after one night. The minister became very upset and advised us to leave the country if we were unhappy. For the first time ever, we experience real fear. We realized that he could jail us or arrange an accident and no one could do anything about it.
Realizing that we were not really wanted or needed in the country, that our contributions would be negligible, and that there was a real threat to our safety, we made the decision to leave Vietnam . We agonized over the decision because we had come to love the children in the orphanage and the people working there as well as at the Peace Village Clinic. We have very warm feelings for the Vietnamese people and the incredibly beautiful country, and we would, someday, like to return there complete the work we have begun.
One day, this generation of leaders will pass on and then Vietnamese will emerge to become to the butterfly of Southeast Asia .
It all began last fall when I was accepted as the overseas manager for the East Meets West Foundation which operated primary care clinic for the "poorest of the poor" and an orphanage for 125 children on the outkirts of Da Nang, Vietnam. I had decided to take advantage of the early retirement package offered by Group Health and retired in January with the intention of volunteering in Vietnam for a year or two, beginning in mid-January. My mission was to help the clinic become more efficient and effective and to conduct pilot public health education programs in four remote villages. My wife was assigned to work with the orphanage as an art and recreation instructor, and to teach English to the staff.
A preview of what we were to experience in country actually began when we flew to San Francisco to pick up our visa on our way to Vietnam . Upon our arrival in San Francisco , we were advised that the Foreign Minister, who issues the visas, wanted us to rent his appartment in Da Nang for $700 a month, with a six month advance payment. We objected, he refused to issue the visas, so we return to Seattle while the Foundation continued the negotiations. Finally, in February, we agreed to the arrangement, paid him $4200, and with a 3 month instead of a 12-month visa, flew to Vietnam . When we arrived, the apartment, of course, still being renovated so we were compelled to stay in a hotel at $45 a day. Upon entering Vietnam, all of our computer discs were cofiscated and only after paying a $40 "handling fee" and copies had been made (for later resale) were they returned to us three weeks later.
On our first day in the office, I picked up the telephone to call my daughter in Seattle and noticed that martial music could be heard in the background during our conversation. I later mentioned that to the Vietnamese staff and they stated the police and military were listening in on all of our telephone calls. We were also warned that our letters were opened and read by the government, so we had to be careful what we wrote. Once, I was required to take a month-end financial report to the police and they decided whether it should be sent off or not.
A few days after we began working in the office, the Vietnamese accountant left for Florida to marry an American doctor she had met when he came to Da Nang to volunteer at the clinic. When we announced the position, the minister sent us candidates who had no accounting training nor English language skills and hired a certified accountant who spoke fluent English. The Minister and the Security Police delayed approval of the new employee, untill, we suspect, some money changed hands or she agreed to kick back a percentage of her salary. We were informed that all the Vietnamese employees were required to pay the police, government offcials, party member, ect, a portion of their salary. The Security Police came to our office to demand, several times, why we refused to hire their candidates.
Incidentally, a Vietnamese physician applied for the accounting job because he had been unemployed for over five years. Apparently, there were hundreds of doctors that were unemployed in spite of the fact that they are some of the lowest paid workers in Vietnam ... $30 a month. I never learned why there were so many unemployed doctors. I was told that they had to pay upwards of $1500 to get practical training and experience in a hospital after they completed their training. Without the training, they were unemployable. I also became aware that there was tremendous discrimination against the South Vietnamese, especially these whose family members supported the defeated government. Most of the unemployed doctors we met were South Vietnamese.
During my orientation in the States, I was warned that the doctors at the Peace Village Clinic were lazy and unmotivated, and only knew how to prescribe vitamins. After spending a few days with the doctors, I found them to be very intelligent, very willing to learn to practice good medicine and were eager to receive any assistance that would enable them to become good practitioners. Unfortunately, their medical training was so poor and inadequate that they were only qualified to prescribe vitamins for every affliction. One day a week, the doctors visited one of the surrounding villages and provided care to the people. I accompanied them on several visits and noted that vitamins were precribed for every ailment, malaria, blindness, fevers, parasites, blood in the urine, diarrhea, ect. What else could they do? They didn't have any other drugs except a few bottles of Ampicillin. The doctors claim that they had to give the patients something to take home so they prescribed vitamins. Made sense to me. Antibiotics may be purchased over the counter so every Vietnamese already had several bottles at home. My translater took antibiotics for headaches, colds, diarrhea, backache, and when she just was not feeling well.
An OB/GYN doctor from San Diego spent a few days at the clinic and showed the doctors how to use a vaginal speculum. A year later, he returned and was very upset that the doctors were not using the speculum and complained to the East Meets West Foundation Board in San Francisco that the doctors were unmotivated and lazy. My report to the Board questioned his assessment. The doctors could not be trained in diagnose and treat gynecological diseases in a few days and the lab tech was only able to do very simple tests. Even if they did, find something, there were no drugs or equipment to treat the problem. Why look for something if you can't do anything about it? I felt that some of the American doctors who volunteered at the Peace Village Clinic were very insensitive and did more harm than good.
As soon as I had settled in, I met with the Minister of Health with a proposal to conduct a pilot public health project in four villages and he seemed to be very enthusiastic about the idea. He accepted the proposal and informed me that he would discuss it with the People's Commitee and get back to me. Two weeks later, he sent me a letter stating that the project was approved and that the Ministry would implement it, but they wanted me to provide them with $20,000. I stated that I did not have the money, only the knowledge, time and willingness to do the training and work with the health workers, but they were not interested in my participation - only my money. I was not invited back to the Ministry.
When I visited my first village to do a health assessment. I was met by the Director of the People's Committee who took me around to the homes of the poorest families. At each farm house, he requested that I pay for something that the family needed, for example: a new roof, a new well, a new house, money for rice, clothes, wheel chair, etc. When I stated over and over that I was not there to give them money, he finally told my translator to get me out of the village. At another village, the officials demanded that I provide them with funds to build a new school and when they realized that I would not provide the funds, I was immediately put under house arrest and ordered not to leave the grounds of the People's Committe office. That night, I was ordered to sleep on the dirty wood floor of the office with only a tattered blanket, and one of the security police officer slept next to me to assure that I did not leave the building. To add to my misery, the officer, whose hand had been blown off by a land mine, place his stump on my stomatch all night while he slept. I, of couse, did not sleep a wink and keep thinking who would ever believe that I would be sleeping on the floor of a Communist party office, next to a Viet Cong policeman whose handless arm rested on my belly! It was one of strangest and scarrest night I have experienced. I kept wondering if I was having a nightmare.
Because we were living in a hotel, we had to eat our meals in restaurants. The only place we and most visitors could eat in Da Nang without getting sick was a restaurant called Christies. Every night, we met American marrines and soldiers who were in Vietnam searching for MIA's. They stated that every village had a scam in operation. The village leaders would claim to have burried in the rice fields two or three Americans who had died during the war. It would cost the American $10,000 to dig in the fields and to hire local workers. The officers we talked to claimed that since 1991 they had found nothing and they didn't expect to find anything. They were required to stay in Vietnam Army Hotel for $75 a night and hire the Vietnam helicopter to take them to the village. We were informed that it cost $750 an hour for the helicopter ride. There were about 30 US military personel looking for MIA's in Da Nang and every major city had a silmilar team. It is coating the US milion of dollars and the Vietnamese are laughing all the way to the bank!
After a couple of months, it became very evident to us that we were not needed in VietNam . The orphanage was being very adequately funded by the US Government and the Vietnamese staff was excellent. The kids were attended in the government school, being provided with training in carpentry, sewing, computer, etc ... and a full time physician took care of the medical needs of the children. They had a basketball court, ping-pong tables, television, videos, bicycles, computers, a vegetable farm, and they raised chickens and pigs for income. The Vietnamese claimed that these chidren, in fact, lived better than all other children in Vietnam .
I was able to raise the salaries of all the doctors, and the rest of clinic staff from $30 to $50 a month. The government required every employee to be paid the same amount whether he/she were a doctor or janitor. I also assisted in development of a long term continuing education program for the doctors. A cadiologist from Japan is sponsoring each year, one doctor from the Peace Village Clinic, who will spend six months in her hospital in Osaka for next few years. The first doctor left Osaka in June. I also opened communication with the Hue hospital to accept our doctors into their resisdency program with us paying for the training. I presented this proposal to East Meets West Foundation Board on my last day in the country. Hopefully, the Boad will vote favourably on this program. I feel that it is very inexpensive to train the doctor for $1600.
Several weeks after we arrived in Da Nang , the Forein Minister demanded more money to finish renovating the apartment to purchase furniture. We were aware of this fact that a Vietnamese doctor makes $30 a month and he would pay, perhaps $10-$15 a month to rent that apartment so we politely ignore his demand for more money. He tightened the screws by requiring us to to provide him with a detailed itinerary as to where we would be every hour, two weeks in advance, by holding up our request for a visa extention and by intimidating our Vietnamese office staff. Three months after we arrived, the Foreign Minister said we could move into the house and we did - for one night. It was only partially completed with electric wires dangling from the ceiling, walls partially painted, plumbing unconnected, no furniture and cockroaches crawling everywhere. In a few minutes, I used up a can of insecticide and the floor was covered with two-inch long cockroaches lying on their backs, leg flailing away. We moved back to the hotel after one night. The minister became very upset and advised us to leave the country if we were unhappy. For the first time ever, we experience real fear. We realized that he could jail us or arrange an accident and no one could do anything about it.
Realizing that we were not really wanted or needed in the country, that our contributions would be negligible, and that there was a real threat to our safety, we made the decision to leave Vietnam . We agonized over the decision because we had come to love the children in the orphanage and the people working there as well as at the Peace Village Clinic. We have very warm feelings for the Vietnamese people and the incredibly beautiful country, and we would, someday, like to return there complete the work we have begun.
One day, this generation of leaders will pass on and then Vietnamese will emerge to become to the butterfly of Southeast Asia .
(Monday May 4, 2009)
Nguon: Du Lam's blog
NHỮNG TẤM LÒNG LỚN VÀ NHỮNG CÁI ĐẦU NHỎ
NHỮNG TẤM LÒNG LỚN VÀ NHỮNG CÁI ĐẦU NHỎ
Một đôi vợ chồng người Mỹ – Ken và Pat – đã quyết định dùng toàn bộ số tiền họ dành dụm được trong cả đời mình để làm một điều tốt đẹp cho người dân Việt Nam. Kết quả là một thư viện khang trang trị giá hơn 50 ngàn USD mọc lên trên vùng đất Bồng Sơn còn nhiều khó khăn của tỉnh Bình Định. Với sự háo hức muốn nhìn thấy công trình của cả đời mình đi vào hoạt động, mang lại lợi ích cho trẻ em VN, hai vợ chồng vừa sang VN dự lễ khánh thành thư viện, để rồi hôm nay họ lên máy bay trở về Mỹ với hai chữ "very disappointed" và câu nhận xét "they have small minds".
Ken là một cựu chiến binh Mỹ trong cuộc chiến VN. Ông là lính trực thăng ở khu vực Bồng Sơn – Bình Định trong những năm 1969 – 1970. Hai năm chiến đấu ở đó đã để lại nhiều kỷ niệm giữa ông và mảnh đất này. Nay ông trở lại với tư cách một thành viên của "The Library of Vietnam Project" nhằm xây dựng một thư viện và trung tâm học tập cộng đồng (mà ông gọi là "library and learning center") cho trẻ em và người dân Bồng Sơn, mà vợ chồng ông là nhà tài trợ chính. Kinh phí dự kiến ban đầu là 35.000 USD, nhưng sau đó đã được đẩy lên tới 58.000 USD, trong đó vợ chồng ông hứa tài trợ 48.000 USD, hơn cả khoản tiền hai người dành dụm được và dự định dùng cho công việc từ thiện. Bà Pat đã quyết định không mua xe hơi mới thay cho chiếc xe cũ của bà để dành tiền xây thư viện. Ngày khánh thành thư viện 9/12/2011 đã được xác định từ một năm trước, và vợ chồng ông luôn coi đó là một mốc thời gian rất có ý nghĩa với họ. Ông Ken nói với vợ rằng dịp này ông sẽ dẫn bà sang thăm VN và xem "chiếc xe hơi mới" của bà ở Bồng Sơn.
Hai vợ chồng đến VN ngày 3/12 và đã tham gia chuyến khám bệnh từ thiện của Từ thiện Minh Tâm tại Bến Tre ngày 4/12 và họ thực sự thích thú khi tiếp xúc những con người VN hiền hòa, hiếu khách nơi đó, cũng như khâm phục tinh thần làm việc vì cộng đồng của các thành viên Từ thiện Minh Tâm. Sau đó họ bay ra Bồng Sơn dự lễ khánh thành thư viện. Chiều 14/12, mình đã mời họ một buổi café như một lời chào tạm biệt trước khi họ về Mỹ ngày 15/12. Không ngờ, cuộc gặp mặt lần này lại là dịp để họ trút ra những nỗi bức xúc và thất vọng mà họ trải qua ở Bồng Sơn.
Dưới đây là những điều Ken và Pat kể lại với mình.
- Đặt chân đến Bồng Sơn, họ vô cùng bất ngờ khi thấy tấm bảng "Trường tiểu học Bồng Sơn" nằm chễm chệ trên tòa nhà mà lẽ ra phải là thư viện. Ken và Pat muốn đặt tên cho thư viện này là "Bong Son – Lucky Star Library and Learning Center" vì Lucky Star chính là đơn vị mà Ken phục vụ thời chiến tranh. Chính quyền địa phương đã tự ý đổi tên và đổi cả chức năng của tòa nhà mà không hề báo một lời với vợ chồng ông – những người đã bỏ tiền xây nên tòa nhà đó – chưa nói đến việc xin ý kiến của vợ chồng ông. Ken nói với mình "I paid for it, but they changed the name. I want my money back."
- Lãnh đạo phòng giáo dục Bồng Sơn, người mà ông đã làm việc trực tiếp trong quá trình xây thư viện, đã không có mặt trong buổi lễ khánh thành thư viện (đã được xác định từ 1 năm trước) với lý do … bận họp. Ken nói, ông không thể hiểu vì sao họ lại họp đúng vào thời điểm mà đã được chọn từ trước cho việc khánh thành thư viện.
- Ken và Pat cảm thấy như họ là những vị khách không mời mà tới trong buổi lễ khánh thành thư viện do chính họ tài trợ xây dựng. Ken nói, khi tôi đến tài trợ xây thư viện, họ tay bắt mặt mừng, cảm ơn rối rít, rồi sau khi nhận tiền và xây thư viện xong, họ "bye bye" như thể tôi đã hết nhiệm vụ ở chỗ này. Không hề có một dòng chữ ghi ơn hai vợ chồng trong thư viện, mà chỉ có một tấm bảng ghi chung chung là "món quà của người Mỹ dành cho người dân Bồng Sơn". Ken bảo ông không biết sau khi ông đi rồi họ có gỡ bỏ tấm bảng này không nữa.
- Ngoài việc nâng kinh phí từ 35.000 USD lên 58.000 USD, họ còn "vòi vĩnh" thêm 20.000 USD để trang bị phòng máy tính cho thư viện. Vợ chồng ông cũng nghĩ đến việc sẽ vận động tài trợ khoản này, thậm chí ông còn lên kế hoạch cho những chương trình dạy tiếng Anh qua mạng cho học sinh Bồng Sơn do nhóm ông thực hiện. Nhưng với những gì đã diễn ra, Ken khẳng định "Everything is finished. Now." Ông nói với mình rằng ông quá thất vọng về những con người đó và đừng hòng có thêm một đồng tài trợ nào từ ông, mà thật sự ông cũng chẳng còn tiền vì đã trút hết vào dự án này. Ông nói rằng ông đến VN với thiện chí không chỉ xây dựng thư viện mà còn để tạo mối quan hệ giữa hai bên cho những sự hợp tác sau này. Thế nhưng cái người ta cần ở ông chỉ là tiền mà thôi. Ông kết luận "I value the relationship with them, but they have small minds".
Điều đáng trân trọng ở Ken và Pat là họ không vì những chuyện này mà mất đi tình cảm và hình ảnh đẹp về con người VN trong lòng họ. Khi tôi nói lấy làm tiếc về "bad experience" họ đã trải qua, họ đã sửa lại "chúng tôi không coi đó là khoảng thời gian tồi tệ. Chúng tôi đã có khoảng thời gian tuyệt vời nhưng với những người không tốt. Tôi không nghĩ người VN là như vậy".
Cảm ơn Ken và Pat về tấm lòng và những việc làm của hai người dành cho người dân VN. Tạm biệt và hẹn gặp lại trong một ngày không xa.
(Trích Facebook Tiến sỹ Nguyễn Đông Hải - một đồng nghiệp tại Đại học sư phạm TP.HCM)
Tại Sao Về Nước Làm Từ Thiện?
Thay đổi con người hay thay xã hội?
Ngô Nhân Dụng
Một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng ở Trung Quốc gần đây viết về mối tương quan mật thiết trong đời sống dân Mông Cổ và loài sói; sách này đã được dịch sang tiếng Anh, tên là Wolf Totem (Tô Tem Sói).
Cuốn truyện của Jiang Rong là một bản anh hùng ca về những thảo nguyên bát ngát ở Nội Mông. Trong không gian bát ngát hoang sơ đó loài sói và loài người vừa tranh đấu đối đầu nhau, vừa cộng tác một cách vô ý thức cùng bảo vệ những loài cỏ cây hoang dại phủ kín các cao nguyên và châu thổ. Cuộc cộng sinh diễn ra suốt lịch sử, từ hàng chục ngàn hay trăm ngàn năm, trước thời Thành Cát Tư Hãn, cho tới bây giờ.
Chuyện Wolf Totem (Lang Tú Ðằng - người Trung Hoa phiên âm chữ Totem là Tu Ðeng, đọc lối Hán Việt là Tú Ðằng) là lợi tự thuật của một sinh viên Ðại Học Bắc Kinh bị đày lên Mông Cổ “học tập lao động” trong thời “Cách mạng Văn hóa,” giống như tác giả Jiang Rong (Khương Nhung tên thật là Lữ Gia Dân). Anh sinh viên này đang phụ trách chăn cừu; anh vẫn định săn bắt một con sói, một thành tích để đạt được lòng kính trọng của người Mông Cổ. Anh cũng muốn đánh bẫy một con sói nhỏ để đem về nuôi thử. Từ trang 319, trong bản dịch do Penguin Press xuất bản, anh được chứng kiến cảnh một con chó sói tấn công đàn cừu. Anh sinh viên đang tản bộ lên đồi, đàn cừu tản mác đi sau. Bỗng quay đầu lại, nhìn thấy một con sói đang quần thảo với đàn cừu. Anh không bắn, cũng tìm cách dọa cho con sói phải chạy đi; vì đã được một người bạn mách kế, cứ chờ con sói ăn no, nặng bụng, chậm chạp, rồi động thủ thì sẽ hạ được nó.
Anh sinh viên đứng quan sát. Khi con sói đã chồm lên cắn cổ, vật ngã một con cừu, nó đè xuống xé da, xả thịt, ngấu nghiến ăn tại chỗ. Ðàn cừu bị tấn công lúc đầu hoảng sợ chạy toán loạn; nhưng khi thấy con sói đã bắt được một con cừu, bắt đầu ngồi xuống chăm chú cắn, nhay, nhai, nuốt, thì cả đàn cừu trở lại tình trạng bình thường; chúng lại cúi xuống gặm cỏ coi như không có gì nguy hiểm cả. Chắc chúng biết lúc này là an toàn, vì mỗi lần một con sói chỉ ăn thịt một con cừu là đủ no bụng. Nhiều con cừu đứng quan sát còn bạo dạn tiến đến xem con sói nó ăn thịt “đồng bào” mình như thế nào; giống như trẻ con đi coi đoàn xiệc hát rong. Một đám cừu bước tới gần, chen chân nhau để giành chỗ tốt, cho thấy rõ hơn. Tác giả Khương Nhung nghĩ: Bộ mặt của mấy chú cừu đóng vai quan sát có vẻ như mừng rỡ: “Gớm, may quá! Con sói nó ăn thịt mày, nó không ăn thịt tao!”
Nhân vật của Khương Nhung là một sinh viên ham đọc sách, mơ mộng và suy nghĩ. Khi nhìn cảnh đó, anh nhớ tới một đoạn văn của Lỗ Tấn đời xưa. Nhà văn tả một cảnh tượng thời trước Ðại chiến Thứ hai, khi quân Nhật đã xâm lăng chiếm một phần Trung Quốc. Có một đám đông người Trung Hoa đứng coi quân đội Nhật Bản đang chuẩn bị chém đầu một người Trung Hoa khác. Dân chúng kéo đến coi như đi coi xiệc. Nhớ lại chuyện cũ, anh sinh viên tự nhủ, “Chẳng trách được, người du mục Mông Cổ họ coi dân Hán mình như một đàn cừu.”
Nhân vật của Khương Nhung nhìn cảnh đàn cừu thì chợt nhớ đến đoạn văn của Lỗ Tấn. Tuần trước, chúng tôi cũng chợt nhớ đến đoạn văn trong tiểu thuyết Tô Tem Sói sau khi theo dõi các mạng lưới bên Tầu sau vụ em bé Duyệt Duyệt chết oan.
Như đã kể nhiều lần trên báo này, hàng chục triệu người Trung Hoa đã bày tỏ ý kiến trên mạng về vụ em bé Duyệt Duyệt 2 tuổi bị xe cán chết ở thành phố Phật Sơn, tỉnh Quảng Ðông mà 18 người qua lại không ai dừng chân nâng dậy, trong suốt bẩy phút. Các “công dân mạng” đặt câu hỏi cho chính lương tâm của họ, và lương tâm của cả mọi người: Phải chăng nước Trung Hoa đã mất linh hồn? Câu hỏi này cũng không khác gì ý nghĩ của nhân vật trong tiểu thuyết trên: Lòng hổ thẹn, và hổ thẹn tập thể.
Khi đứng trước một cảnh tượng cùng đáng xấu hổ mà một dân tộc biết xấu hổ, đó là điều đáng mừng. Ý thức rằng xã hội mình đang lâm bệnh trầm trọng, là một bước đầu để tự thay đổi, tự cải thiện. Nhắm mắt không chịu nhìn, hoặc nhìn thấy mà không chịu thú nhận mình mắc bệnh thì “hết thuốc chữa!” Vụ em bé Duyệt Duyệt xẩy ra khoảng một tuần lễ sau khi báo chí ở Trung Quốc loan tin một cụ già ở tỉnh Hồ Bắc bị té giữa đường phố trong suốt 90 phút người qua lại để mặc cho ông cụ nằm không ai ngó tới, cho đến khi tắt thở. Người con trai ông cụ hỏi với nhà báo: “Người Trung Hoa mình đã đánh mất thói quen cứu giúp người một cách dễ dàng như vậy hay sao?” Một nhà nghiên cứu về truyền thông viết trên trang Weibo, mạng Sina: “Trung Quốc đang phải đối diện với một thời điểm vô đạo đức nhất trong lịch sử.”
Nhưng trước căn bệnh đám đông thờ ơ, lãnh đạm trước cảnh một đồng loại lâm nạn, nhất là một em bé hai tuổi, thì người ta phải làm gì? Phải tìm hiểu những nguyên nhân nào gây ra bệnh. Hiểu biết căn nguyên rồi, mới đi tìm những phương cách diệt trừ phiền não.
Trên các mạng lưới, giới trí thức, thanh niên Trung Quốc đã nhận ra xã hội họ đang sống rất bệnh hoạn. Họ viết: “Chúng ta đều là những em bé Duyệt Duyệt!” Hoặc, “Chúng ta đều là những kẻ qua đường thờ ơ!”
Người ta đã tìm các nguyên nhân gây nên căn bệnh ích kỷ, thờ ơ này. Họ liệt kê các chứng bệnh gốc: Xu hướng chỉ biết kiếm tiền và hưởng thụ, sinh ra trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Nhiều người nêu lên khiếm khuyết trong nền giáo dục gia đình, cha mẹ dạy con tính ích kỷ. Nhiều người còn nhắc tới di sản, thời Mao Trạch Ðông đã xóa bỏ các nền móng đạo lý cổ truyền khiến người Trung Hoa mất kim chỉ nam về đạo đức.
Giáo Sư Hạ Học Loan (Xia Xueluan) thấy nguyên nhân là xã hội Trung Hoa đang trải qua một “cuộc khủng hoảng lòng tin, giữa người với người.” Ông Tạ Tĩnh (Xie Jing), giáo sư tại Ðại Học Phục Ðán ở Thượng Hải thấy tin tức trên báo chí nói đến những chuyện như anh Bành Vũ cứu người rồi sau đó bị gia đình nạn nhân kiện đòi bồi thường được các báo, các đài loan tải, khiến ai cũng dè dặt, do dự trước khi bước tới giúp đỡ người khác.
Chàng sinh viên của Khương Nhung nhìn đàn cừu đứng coi một đồng loại bị sói ăn thịt, lương tâm xã hội của anh thức dậy, không khác gì các công dân mạng ở Trung Quốc bây giờ. Nhưng trong vụ em bé Duyệt Duyệt, một con cừu bé nhỏ đang bị những bánh xe vận tải “ăn thịt,” thì ai đóng vai con chó sói?
Con chó sói tham ăn trong câu chuyện em bé Duyệt Duyệt là cả xã hội Trung Quốc chung quanh. Rất nhiều người đang chạy đuổi theo đồng tiền, và chỉ biết chăm lo quyền lợi của chính mình, không cảm thấy có trách nhiệm phải cứu đồng loại. Ai tạo ra những con chó sói? Trên trang Weibo của mạng lưới Sina, Giáo Sư Lý Hoa Ðông tìm thủ phạm: “Cái gì đã gây nên cảnh tang thương này? Các viên chức chính quyền? Những người giầu có nhất trong nước? Hay chỉ vì tánh lãnh đạm thờ ơ của chúng ta?” Ông Vương Dương (Wang Yang), bí thư tỉnh ủy Quảng Ðông, nói rằng tai nạn này là một “tiếng chuông báo động,” đánh thức tất cả mọi người. Năm ngày sau khi tai nạn xẩy ra, một cuộc họp của Trung Ương Ðảng Cộng Sản cũng đưa ra lời kêu gọi phải nâng cao “cuộc sống tinh thần” của nhân dân Trung Hoa.
Ðấy là những lời tuyên bố rất hay. Nhưng câu hỏi tiếp theo là “Người ta phải làm gì? Làm cách nào nâng cao được đời sống tinh thần người dân trong một nước?”
Cả ba điều ông Lý Hoa Ðông nêu ra đều không phải là nguyên nhân gốc của căn bệnh; mặc dù đều đóng góp một phần gây nên thái độ vô trách nhiệm tập thể. Những người giầu có trong nước Trung Hoa không nhất thiết là những người chỉ biết ích kỷ, duy lợi. Các viên chức chính quyền không ngăn ngừa một tai nạn như vậy cũng chịu trách nhiệm, nhưng không thể nói họ đã khuyến khích mọi người dân lãnh đạm thờ ơ trước cảnh khổ của đồng loại. Còn tánh ích kỷ, thờ ơ của những người qua đường? Họ đã nhiễm tính đó từ lâu, trong kinh nghiệm cuộc sống hàng ngày, lâu lâu tính đó có dịp biểu hiện ra, nhưng không phải họ được sinh ra đời với tính tình như vậy. Chính cuộc sống xã hội đã tạo ra tinh thần lãnh đạm, thờ ơ của đám đông.
Câu chuyện Lỗ Tấn kể xẩy ra trong thời gian nước Trung Hoa đang hỗn loạn. Trong nước thì các lãnh chúa và đảng phái tranh quyền, cuối cùng là hai phe, chính quyền Quốc Dân Ðảng và phong trào Cộng Sản; trong lúc quân Nhật đang xâm chiếm. Người Trung Hoa thời đó đã sống hàng thế kỷ trong loạn lạc, xã hội không còn kỷ cương nữa. Người giầu cũng không biết số phận mình mai sau sẽ ra sao, họ lo tích trữ tiền bạc phòng thân. Các tay lãnh chúa lo bảo vệ quyền hành của họ, sợ mất quyền thì không những mất tài sản, lợi lộc mà có thể còn mất mạng. Trong khung cảnh đó, những người dân bình thường không cảm thấy họ chia sẻ trách nhiệm về người khác.
Tâm lý ích kỷ, thờ ơ, vô trách nhiệm trước đồng loại đó vẫn duy trì và củng cố thêm trong chế độ cộng sản. Ðảng Cộng Sản tập trung cả hai thứ, của cải và quyền hành vào trong tay một nhóm người. Việc gì cũng do Ðảng và Nhà nước quyết đoán. Họa hay phúc đều do Ðảng và Nhà nước ban phát. Làm sao tôi có thể lo lắng cho số phận người hàng xóm của tôi, trong khi chính cá nhân tôi cũng không biết Ðảng và Nhà nước sẽ cho mình được số phận thế nào?
Muốn tránh cảnh “ai cũng là người qua đường” như trong chuyện em bé Duyệt Duyệt, người Trung Hoa phải tập lại lối sống cũ, khi mọi người đều thấy mình có trách nhiệm đối với mọi người. Người dân phải tập sống có trách nhiệm. Kinh tế thị trường bắt đầu tập cho người ta thói quen không trông chờ cấp trên ra lệnh phải ăn cái gì, mặc quần áo thế nào. Nhưng chỉ khi nào người dân được hưởng tự do và chịu trách nhiệm chọn lựa những người cai trị, họ mới thật sự cảm thấy mỗi người có trách nhiệm về cả xã hội mình. Trách nhiệm chỉ phát sinh người ta được tham dự, được lựa chọn và chịu hậu quả về lựa chọn của mình. Tinh thần liên đới chỉ phát sinh khi mọi người đều được bình đẳng tham gia trong các quyết định chung. Phải thay đổi chế độ chính trị ở Trung Quốc thì, hy vọng trong một thế hệ, mới tập được những thói quen mới đó.
Vô cảm đến từ đâu?
Trong bài trước, tôi cho nguyên nhân của sự vô cảm không đến từ sự phát triển kinh tế và xã hội. Vậy chúng đến từ đâu?
Trước khi trả lời câu hỏi ấy, chúng ta cần phân biệt ba cấp độ vô cảm khác nhau trong đời sống hàng ngày.
Thứ nhất, vô cảm trước người khác - hiểu theo nghĩa là một hay nhiều người cụ thể, ở ngay trước mặt, như người thân trong gia đình, hàng xóm hay bất cứ ai đó gặp tai nạn ngoài đường.
Thứ hai là vô cảm trước đất nước hiểu theo nghĩa một cộng đồng mà mỗi người là một thành viên.
Thứ ba là vô cảm trước đồng loại, bao gồm cả những người ở xa, xa xôi và xa lạ, thuộc một đất nước khác hay một lục địa khác.
Tạm thời, chúng ta gác loại vô cảm thứ ba lại. Chỉ tập trung vào hai loại vô cảm thứ nhất và thứ hai. Lý do: một, đó là những vấn đề bức xúc nhất hiện nay; hai, sự vô cảm thứ ba chỉ khắc phục được nếu người ta đã vượt qua được hai loại vô cảm đầu tiên: Không hy vọng có người biết xúc động trước nỗi đau khổ của ai đó, ở châu Phi chẳng hạn, nếu người ta cứ dửng dưng trước những đau khổ ngay trước mặt và trước mắt mình. Nếu có, đó chỉ là chút cảm xúc mang mùi lãng mạn chủ nghĩa; nó thoáng qua, rồi tắt, chứ chắc chắn sẽ không dẫn đến bất cứ một hành động cụ thể nào cả.
Trong hai loại vô cảm trên, xin phân tích loại vô cảm trước đất nước trước. Vì câu trả lời tương đối đơn giản và dễ có sức thuyết phục nhất.
Vô cảm trước đất nước có nhiều biểu hiện, nhưng trung tâm vẫn là sự dửng dưng, hay nói theo chữ quen thuộc ở Việt Nam lâu nay, là mặc kệ. Đất nước nghèo đói ư? – Mặc kệ! Đất nước càng ngày càng lạc hậu ư? – Mặc kệ! Sự bất bình đẳng trong nước càng ngày càng trầm trọng; khoảng cách giữa giàu - nghèo càng ngày càng lớn; người giàu càng ngày càng giàu và người nghèo càng ngày càng nghèo ư? – Mặc kệ! Nạn tham nhũng càng ngày càng hoành hành, càng phá nát nền kinh tế quốc gia ư? – Mặc kệ! Xã hội càng ngày càng băng hoại; văn hóa càng ngày càng suy đồi; giáo dục càng ngày càng xuống cấp ư? – Mặc kệ! Trung Quốc xâm lấn Việt Nam, làm lũng đoạn kinh tế Việt Nam, bắt bớ và giết hại ngư dân Việt Nam ư? – Mặc kệ!
Dửng dưng hay mặc kệ trước những vấn đề liên quan đến danh dự quốc gia cũng là một sự vô cảm. Cái gọi là danh dự quốc gia có nhiều cấp độ khác nhau. Một vị nguyên thủ hay quan chức cao cấp khi tiếp xúc với các đối tác nước ngoài, cần giữ gìn quốc thể (ngay cả cách bắt tay: trong lúc đối tác đưa một tay; còn mình thì đưa cả hai tay, làm toát lên vẻ gì như nịnh bợ, hoặc ít nhất, khúm núm một cách quá đáng như hiện tượng được nhiều blogger Việt Nam nêu lên gần đây, cũng liên quan đến quốc thể). Ngay cả người bình thường, trong những hoàn cảnh bình thường, khi tiếp xúc với người ngoại quốc, cho dù chỉ là một du khách bình thường, cũng cố gắng không để họ đánh giá thấp dân tộc của mình. Ngược lại, cứ mặc kệ tất cả, ai khinh thì khinh, ai ghét thì ghét, miễn có chút lợi nhỏ là mình cứ làm: Đó là vô cảm.
Bình thường, người ta hay quy chung cả hai khía cạnh ở trên (sự quan tâm đến vận mệnh và danh dự của đất nước) vào phạm trù yêu nước. Tuy nhiên, theo tôi, đó là điều không nên. Nói đến yêu nước, thứ nhất, là chỉ tập trung ở khía cạnh tình cảm; và thứ hai, một cái gì có tính chất tự nguyện. Ở Tây phương hiện nay, rất hiếm khi người ta đề cập đến lòng yêu nước. Người ta chỉ đề cập đến tinh thần trách nhiệm (trong trường hợp trên) và sự tự trọng (trong trường hợp dưới).
Trách nhiệm có hai hình thức: bắt buộc và tự nguyện. Đóng thuế và thi hành các bổn phận công dân như chấp hành pháp luật, tham gia bầu cử... là những trách nhiệm bắt buộc. Nhưng ứng cử, tranh đấu cho một chính sách mà mình tin là đúng đắn, bảo vệ môi trường sinh thái, v.v... là những trách nhiệm tự nguyện.
Sự tự trọng cũng thuộc phạm vi tự nguyện. Nó thuộc phạm vi văn hóa hơn là pháp luật.
Ở Tây phương, người ta dùng pháp luật để cưỡng chế loại trách nhiệm thứ nhất trong khi đó họ lại dùng giáo dục để khuyến khích loại trách nhiệm thứ hai và nuôi dưỡng lòng tự trọng đối với cá nhân cũng như đối với đất nước.
Ở Việt Nam, từ xưa, cha ông chúng ta cũng từng ra sức giáo dục và nuôi dưỡng cả loại trách nhiệm tự nguyện lẫn lòng tự trọng trong những phạm vi liên quan đến quốc gia và quốc thể. Những câu tục ngữ và ca dao quen thuộc như “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” hay “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, “nhiễu điều phủ lấy giá gương / người trong một nước phải thương nhau cùng”, “khôn ngoan đối đáp người ngoài / gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” là thuộc loại đó.
Trong lịch sử, người Việt Nam từng chứng tỏ ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng cao trong những vấn đề liên quan đến đất nước. Không có ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng ấy, chắc chắn Việt Nam không thể giành được độc lập sau một ngàn năm bị Trung Hoa đô hộ và cũng không thể giữ được độc lập trước bao nhiêu cuộc xâm lược khác, sau đó.
Thế nhưng, gần đây, mọi sự dường như khác hẳn. Trung Quốc ngang ngược xâm phạm lãnh hải Việt Nam, bắt bớ, thậm chí giết ngư dân Việt Nam, phần lớn vẫn dửng dưng. Trung Quốc lũng đoạn kinh tế Việt Nam, đưa di dân lậu tràn ngập vào Việt Nam, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh, chủ quyền và độc lập của Việt Nam, phần lớn vẫn dửng dưng. Chỉ có một số, một số thật nhỏ, biểu thị thái độ cảnh giác và phản đối sự uy hiếp ấy từ Trung Quốc qua một số cuộc biểu tình tại Sàigòn và Hà Nội. Điều đáng chú ý không phải là bản thân các cuộc biểu tình ấy mà là thái độ thờ ơ, thậm chí, thù nghịch của nhiều người chung quanh. Theo tường thuật trên các blog, không ít thanh niên lái xe qua, chõ miệng chửi những người biểu tình chống Trung Quốc là “Đồ điên!”
Sự thờ ơ, dửng dưng cũng biểu hiện rất rõ qua thái độ của các cán bộ cao cấp thuộc loại đầu ngành ở Việt Nam. Những sơ sót liên quan đến các bản tin Trung Quốc tập trận ở Biển Đông từng làm xôn xao dư luận trong cộng đồng mạng, theo tôi, cũng xuất phát từ sự thờ ơ và dửng dưng ấy. Chính quyền các địa phương để cho Trung Quốc thuê rừng, kể cả rừng đầu nguồn và có vị trí chiến lược quan trọng của Việt Nam, ngoài chuyện có thể bị mua chuộc, phần nào cũng xuất phát từ sự thờ ơ và dửng dưng như thế. Dường như người ta chỉ cần vơ vét lợi nhuận riêng, còn chuyện quốc gia và quốc thể thì mặc kệ. Bất cần.
Những sự thờ ơ, dửng dưng, mặc kệ và bất cần ấy thực chất là một sự vô cảm.
Nhưng tại sao người ta lại trở thành vô cảm một cách đáng sợ như thế?
Câu trả lời tương đối dễ: Một, người ta bị tước trách nhiệm đối với đất nước; và hai, bất cứ người nào còn có trách nhiệm và muốn biểu lộ trách nhiệm ấy thì bị chụp mũ, sỉ nhục, bắt bớ, giam cầm. Trách nhiệm đối với đất nước trở thành một cái tội. Trên hệ thống tuyên truyền, chính quyền luôn luôn nhấn mạnh: đó là trách nhiệm của đảng và chính quyền chứ không phải của người dân. Chính quyền và đảng thực thi trách nhiệm ấy như thế nào? Không cần biết. Chỉ cần biết đó là chuyện của chính quyền và của đảng. Vậy thôi. Dân chúng bị xem là những kẻ ngoại cuộc đối các vấn đề quốc sự. Người nào không chấp nhận điều đó thì bị trừng phạt nặng nề. Kẻ thì bị đạp vào mặt. Kẻ thì bị bắt bớ. Kẻ thì bị đe dọa. Kẻ thì bị bêu xấu trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Trong hoàn cảnh như thế, người ta không vô cảm đối với đất nước mới là chuyện lạ.
No comments:
Post a Comment