-                    PSN - 25.12.2010 | Phan Thanh Tâm
 
                 Trưa ngày 30/4/75 lúc xe tăng Nga T54 tiến vào ủi sập cổng dinh                  Độc Lập thì trên đài Saigon, cả nước nghe Trịnh Công Sơn (TCS)                  hát bài Nối Vòng Tay Lớn: bàn tay ta nắm nối tròn một                  vòng Việt Nam. Nhưng ít ai biết tác giả với giọng ca đó đã                  từng bị đe dọa thanh toán giết vì một                  sáng tác sau vụ cán bộ nằm vùng nổ                  súng cướp                  micro ở Đại Học Văn khoa năm 1967 vì câu Anh nhân danh ai đến                  đây bắn vào người; và mấy ai biết TCS đã ví Việt Cọng như                  đàn bò vào thành phố qua bản Du Mục? Ngoài ra, cũng                  hiếm người biết rằng nhờ báo Saigon trước 75 đăng lệnh cấm phổ                  biến nhạc phản chiến họ Trịnh số 33 ngày 8/2/1969, đã cứu TCS                  khỏi vụ xét Trịnh Công Sơn có công hay có tội với cách                  mạng, tại Hội Văn Nghệ ở Huế sau ngày toàn VN bị nhuốm đỏ; khi                  Hội đặt vấn đề về câu hát Hai mươi năm nội chiến từng ngày                  và bài thương tiếc một Sĩ Quan Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).                  
                 Bản Anh Nhân Danh Ai được dấu tiệt sau khi TCS nhận được                  lời cảnh cáo. Phạm Phú Minh, chủ biên Diễn Đàn Thế Kỷ cho tôi                  biết như vậy khi chúng tôi nhắc tới Quasimodo, một nhân vật vô                  gia cư sống quanh Quán Văn, chỗ mà nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn (HNT)                  gọi là Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau, cách Phủ Tổng Thống                  ba blocks. Vụ khủng bố có máu đổ trong trường học đã khiến TCS                  hết dám hát trước đám đông ở Saigon và Quán Văn đóng cửa luôn.                  Còn chuyện TCS thoát hiểm nhờ lệnh số 33 được Nguyễn Đắc Xuân kể                  lại trong Trịnh Công Sơn-Có Một Thời Như Thế. Sách                  này sưu tầm nguồn tư liệu đời TCS; có đề cập thời gian TCS về                  lại cố                  đô sau 1975, để tránh việc anh em Phong Trào không thích lập                  trường chung chung của họ Trịnh. Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ                  Ngọc Tường là hai người                  hay                                                   được nhắc đến khi nói về vụ thảm sát Mậu Thân 1968 Huế.
                 Vào đêm nổ súng ở trường đại học Văn Khoa mới xây, khi phần                  trình diễn văn nghệ của Khánh Ly và TCS tạm ngưng để Ngô Vương                  Toại nói về việc bầu ban chấp hành sinh viên cho năm tới, thì                  một cặp nam nữ lên sân khấu cướp                  micro, tuyên bố kỷ niệm bảy năm thành lập Mặt Trận Gỉải Phóng Miền                  Nam. Ngô Vương Toại bị bắn quỵ ngay khi cố giữ micro lại. Nguyễn                  văn Tấn nhào lên bị bắn què giò. Chủ biên Diễn Đàn Thế kỷ kể,                  TCS vài ngày sau, một                  buổi                  trưa ôm đàn guitare hát bài có lời nói trên trong căn nhà tiền                  chế,                  trên nền Đại Học Văn Khoa cũ. Phạm Phú Minh nói thêm, chẳng bao                  lâu họ Trịnh cho hay ông bị hăm dọa. Thời gian 1966-1967, khi                  phụ trách Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường                  ( CPS ), Bộ Giáo Dục giao cho Hà Tường Cát, Phan Văn Phùng, Phạm                  Phú Minh điều hành khu đất trống sau trường; và chính Đỗ Việt                  Anh đưa ra sáng kiến lập Quán Văn. 
                                  Nhân danh ai?
                 Vẫn theo Hoàng Xuân Sơn, Nhóm Sinh Viên Văn Hóa đã góp tiền và                  tự quản quán Văn. Vì vụ bắn cướp và vì những lý do riêng tư cùng                  với lệnh giải tỏa khu đất để xây Thư Viện Quốc gia, anh em tan                  hàng. TCS đã sáng tác ca khúc Nhân Danh Ai, dành riêng                  cho Ngô Vương Toại. Bài ca lên án những ai dùng bạo lực để cướp                  lấy tính mạng của đồng loại. Khánh Ly và các bạn cùng nhóm –                  từng sinh hoạt chung ở quán cà phê vang danh một thời – đã đứng                  ca bài này trước đầu giường bệnh Ngô Vương Toại đêm Giáng sinh                  1967; nhưng giờ, chỉ nhớ lỏm bỏm được một câu: Nhân danh ai anh                  đến đây bắn vào người – cho máu em cho máu anh tuôn trên da thịt                  này. Hỏi NgôVương Toại thì cũng không nhớ trọn: 
                                  Nhân danh ai anh đến đây bắn vào người
                                  Lũ dơi trời đêm nay vùng biết nói
                                  Nhân danh ai ? anh đến đây bắn vào người
                                  Trong mắt anh, trong mắt em, hãi hùng đầy
                                  Xin nhân loại một ngày, nhủ lòng thương mến nhau 
                                  thôi 
                                  Nhân danh ai, anh đến đây bắn vào người
                                  ......
                                  Trong tim anh, mẹ Việt nằm
                                  Trên nôi chung một màu vàng
                                  Một niềm tin, một giận hờn …
                 Phạm Duy, trong Hồi Ký đã ghi, Tình khúc TCS ra đời, từ giữa                  giàn phóng là Quán Văn được hỏa tiễn Khánh Ly đưa vút vào phòng                  trà, rồi vào băng cassette và chỉ trong một thời gian rất ngắn                  đã chinh phục được tất cả người nghe. So sánh với những tình                  khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc TCS rất mới.                  Thật ra, các ca khúc của họ Trịnh tự nó đã dễ cảm nhận, dễ đi                  vào tim óc người nghe rồi vì nó là nỗi lòng của mỗi một con                  người trong cuộc sống. Nó có sông, suối, núi đồi, có hoa                  lá bốn mùa, có tình yêu, tình bạn.                                   Nó là nắng, là mưa, là nụ cười, là tiếng khóc. Nó chính là tiếng                  chim buổi sáng, tiếng gà gáy buổi trưa trên đồi mang âm vang của                  một nỗi nhớ nhung. Tôi đã vẽ ra những bầu trời có cánh bướm,                  cánh chuồn, có màu môi hồng ngọc.                  Đấy là những điều TCS (1939 – 2001) giải bày về nhạc của mình                  qua bài Phác Thảo Chân Dung Tôi viết năm 1987.
                 Thiết tưởng, khi sưu                  tập về các tác giả                  đã sáng tác thơ tình ở miền Nam trong giai đoạn 1954-1975,                  không thể không nhắc tới TCS. Vì sao? Tuy không hẳn làm thơ                  nhưng như họ Trịnh nói, các sáng tác của ông là cuộc hôn phối                  giữa thi ca và âm nhạc. Nhiều người còn cho rằng TCS                  đích thực là một thi sĩ. Ngoài ra, có một nghệ sĩ khác, nhà văn                  Hoàng Ngọc Tuấn cũng nên được ghi nhận trong việc sưu tầm. Họ                  Hoàng cùng nổi tiếng một thời với họ Trịnh; cũng đã qua đời ở                  Việt Nam. Những                                   truyện ngắn của                                   HNT                 là những nhạc khúc, những bài thơ được trình                  tấu bằng văn xuôi.                                                   Tất cả đều là tiếng cười, điệu hát, giọt lệ hân hoan của một                  thời tuổi                 trẻ. HNT viết tập truyện ngắn Ở Một Nơi Ai Cũng Quen                  Nhau giữa lúc đại bác Cộng Quân đêm đêm rót vào thành phố;                  cán bộ nằm vùng gia tăng phá hoại, ám sát, đặt mìn, liệng chất                  nổ vào chỗ đông người rạp hát, chợ búa.
                 Lời văn, câu ca, điệu nhạc của họ chẳng những cho thấy hai tâm                  hồn nghệ sĩ của một thời đại mà còn phản ảnh được bi kịch của                  một giai đoạn lịch sử. Khi mọi người đã chia tay rã đám rồi, đôi                  bạn chân tình TCS/HNT là hai người cuối cùng rời bỏ cái quán cà                  phê lợp tôn và một dãy nhà thấp lụp xụp làm bằng những vật liệu                  thô sơ gỗ rơm cát tông. TCS về Huế; HNT khoác áo lính đi bốn                  vùng chiến thuật. CPS/Quán Văn ở góc đường Lê Thánh Tôn – Công                  Lý, thời Pháp thuộc là khám lớn Saigon. Theo mô tả của HNT, Ở                  Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau là một                                   khu cỏ dại, ngay trung tâm thủ đô. Về khuya, khi hết khách,                  trong hơi lạnh của sương đêm, cả bọn im lặng, dưới                                                                                                                              
ánh                  đèn mờ, nghe Lệ Mai hát mấy bản nhạc của họ Trịnh. Giống                                   như một gã lãng tử người Mễ Tây Cơ trong chiếc áo rộng thùng                  thình, chàng nhạc sĩ ngồi trong bóng tối ôm cây guitare đàn theo                  giọng hát. 
                 Lệ Mai ban ngày nghịch như một con chim rừng xanh; nhưng ban đêm                  khi cất tiếng hát cao, giọng nàng nghèn nghẹn một nỗi trầm buồn.                  Tiếng hát hoang đường hòa với tiếng đàn đêm khuya của TCS khiến                  cho thân thể người nghe sựng lại bất động; mọi cánh cửa của tâm                  hồn như mở ra để đón nhận những lời hát. HNT viết tiếp, giọng                  hát làm cho giọt nước mưa tưởng chừng an phận trong đời sông hồ                  bỗng nhiên ao ước bay về trời làm mây trở lại. Lệ Mai tức                  Khánh Ly đêm nào, ở khu này, được tôn làm Nữ Hoàng Chân Đất hay                  Nữ Hoàng Sân Cỏ khi nàng bất thần bỏ giày bước lên thùng gỗ đựng                  beer, vịn vai TCS, mắt nhắm, mặt ngước cao, hát lên những địa                  danh vang ầm tiếng súng, đầy chết chóc ở Pleime, Đồng Xoài; và                  về gia tài của mẹ, về người con gái Việt Nam da vàng khiến hội                  trường lịm người rồi òa lên cỗ vũ cuồng nhiệt. Có bài hát đến                  tám lần. 
                                  Quá nhiều nợ
                 Phụ lục nhật ký in sau tập truyện Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau                  cho biết, nếu ai tới Quán văn, hễ thấy một thằng người Huế,                  hơi gầy, tóc không chải, áo quần bê bối, miệng hay hát những câu                  kỳ cục, thường hút một thứ thuốc lá Lạc Đà hay bó gối ngồi một                  mình với dáng cô độc buồn bã thì người đó là HNT. Ông nổi                  tiếng ngay từ cuốn đầu tiên Hình Như Là Tình Yêu. Truyện                  viết về những kẻ bỏ học đường, những tâm hồn lang thang, những                  lãng tử, những tiếng hát đàn bà, những bé thơ ngây và những gái                  giang hồ. Ngỏ lời trong buổi ra mắt sách HNT nói, cái thế                  giới tôi yêu mến và hết lòng cố gắng thể hiện là cái thế giới                  tôi đang sống, tôi đang có. Ông có gì? Nhiều bạn                  và nhiều nợ vì bỏ nhà đi hoang sớm; và vì xài nhiều hơn số                  tiền kiếm được. Ông chỉ mong có dịp lên hát song ca với Khánh                  Ly vài bản để trừ nợ của cô. Đó là chưa kể nợ ân nghĩa và nợ                  tình cảm.
                 Nhật ký còn ghi HNT đặc biệt mang ơn cô thi sĩ nhỏ Minh Ngọc,                  đã tưới chan chứa cho tôi nguồn nước ngọt trong đời lao                  đao khô cạn. Trang mạng Gió-O cho biết hình như giữa họ còn                  mấy đám mây mù hệ lụy văn chương nào đấy với nhau. Cũng trên                  mạng đó có đăng một khúc chiêu niệm của Minh Ngọc dành tiễn                  người yêu cũ chia tay trần gian; trong đó có câu                                                    Kính thưa thầy, đây là bài toán của con; con không thể chứng                  minh đường thẳng là đường ngắn nhất nối giữa 2 đường; vì bao máu                  xương đã đổ rồi                                   mà                  có nối được đâu Sàigòn-Hànội; cho dù có qua Paris, Washington                  D.C, Moscow, Bắc Kinh.                                                   Con không thể, Bởi vì sáng nay Anh Con Vừa Chết.                                   HNT sinh ngày 20/5/47                                   tại Huế và mất ngày 9/7/05 tại SàiGòn. Tác gỉa Ở Một Nơi Ai                  Cũng Quen Nhau không vợ con; quá túng thiếu trước khi lìa                  đời. Nhà văn HNT sau 75 còm cõi, xơ xác, thường ngồi trầm                  ngâm giữa mịt mù khói thuốc. 
                 HNT học Triết ở Đại Học Văn Khoa Saigon. Trước ngày “giải phóng”                  30/4/75, ông in được sách khá nhiều và nhanh; bán rất chạy nhưng                  vẫn nghèo vì quá hào phóng; ăn xài xả láng với bạn bè. Sống một                  đời lãng tử; lang thang rày đây mai đó. Mỗi sáng sớm tôi gói                  bót và kem đánh răng trong một cuốn sách vùa in của tôi, ra đánh                  răng rửa mặt “ké” ở “toilette” của quán cà phê đầu ngỏ. Tôi là                  nhà văn. Nhà văn hoạt động mệt hơn một người lao công cộng với                  một nhà triết học. Tôi viết văn và tác phẩm của tôi cảm                  hứng từ tất cả những mùi vị của cuộc đời. Tôi sống và yêu, yêu                  và viết, viết và sống. Từ đau đớn và truân chuyên, tôi gửi đến                  cho mọi người hạnh phúc vững bền của chữ nghĩa. Những câu                  này trích từ nhật ký viết năm 1972 thời VNCH, họ Hoàng 28 tuổi                  đã có hơn 10 tập truyện. Sau đó, 30 năm sống trong thời đại văn                  “thiến”                  Hồ Chí Minh,                                   ông không sáng tác được gì. 
                 Trong Văn Học Miền Nam Tổng Quan, Võ Phiến đã nhận xét, nhà văn                  HNT là thơ, là mộng, là tình. Tác giả Ở Một Nơi Ai                  Cũng Quen Nhau đạt những gì ông mong mỏi nhưng không có                  duyên để hưởng. Qua hồi ký, HNT cho biết, ông sung sướng vì đã                  có ít nhiều độc giả lý tưởng, cảm thông và chia sẻ ước mơ của                  mình. Chuyện sau đây không phải Hình Như Là Tình Yêu đã chớm nở                  mà theo Hoàng Xuân Sơn như chuyện thần tiên đã xảy ra. Tôi                  đọc một lần là thương liền. Tất cả những dòng chữ trong cuốn                  truyện này là tiếng sét ái tình. Đọc HNT tôi vừa nể                  trọng, vừa kính phục, vừa thương. Nữ độc giả Hoà Bình thố lộ                  như vậy qua bài Nói Với Hoàng Ngọc Tuấn; và còn cho hay,                  đã về Việt Nam hai lần cố tìm HNT để đáp ứng điều ông cần một                  năm đủ ăn, rảnh rang để có thể viết một tác phẩm nhưng không                  thành.                                   Với sự đồng ý của gia đình HNT và để bày tỏ lòng quí mến,                  nữ độc giả đã in lại cuốn này.
                                  Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau                  ngoài Nữ Hoàng Sân Cỏ, với giọng hát làm cả hội trường thẩn thờ,                  còn có một Bông Hồng Quán Văn, xinh xắn, dịu dàng, bặt thiệp và                  một nụ cười dễ mến, nhờ chiếc răng khễnh ngộ nghĩnh, đã khiến                  nhiều chàng trai thành tình si. Trên quầy lúc nào cũng có bông                  hồng của khách. Nhuệ Giang, em gái nhỏ, của bọn người từ những                  thành phố khác nhau đã chung sống như một gia đình, làm thâu                  ngân viên nên tiền thu của quán đêm nào cũng đầy. Hoàng Xuân Sơn                  đúng khi cho rằng, Quán Văn đã tạo nên phong trào mở quán cà phê                  đèn mờ, nhạc nhẹ, có tà áo dài thấp thoáng như Thằng Bờm, Hầm                  Gió, Hội Quán Cây Tre.... Những quán hàng này cùng với các tiệm                  nổi tiếng Givral, La Pagode, Brodard, Thanh Thế cùng nhà sách                  Khai Trí và Xuân Thu chuyên sách ngoại đã làm cho đời sống                  Saigon thêm phong phú, sinh động về mặt văn học, nghệ thuật.
                 Radio Catinat ở Givral là chỗ của chính khách, nghị sĩ, dân                  biểu, nhà báo. Họ là những thầy bàn về tình hình trong và ngoài                  nước. Tin tức tại đây 24 giờ sau mới bày hàng trên mấy sạp báo                  Saigon. Quán cái chùa La Pagode là tụ điểm giới văn nghệ; lúc                  nào cũng có vài nhà văn, nhà thơ thuộc loại cây đa, cây đề. Đi                  về hướng bờ sông vào tiệm Brodard sẽ thấy mấy nhà affair đang kỳ                  kèo bớt một thêm hai. Ngược về chợ Bến Thành, vô quán Thanh Thế,                  Thanh Bạch, Kim Sơn nghe chuyện thể thao kịch trường. Tới ngã tư                  quốc tế Bùi Viện - Phạm Ngũ Lão sẽ biết nhiều về hậu trường sân                  khấu của các đào kép cải lương. Muốn tâm sự nhỏ to, thì ghé tiệm                  cà phê ở cuối góc phố. Nên nhớ theo Võ Phiến, những giọt cà phê                  tự trọng là những giọt không bao giờ rơi nhanh. Chẳng hề có                  chuyện phân biệt đối xử theo giai cấp. Quán không lựa khách.                  Khách chọn quán, tạo cho quán không khí riêng.
                                  Giải phóng thành phỏng dái
                 Từ Thức Trần Công Sung trong bài Trịnh Công Sơn Và Những Ngày                  Văn Khoa trên Thế kỷ 21, cho biết từ 1963, sinh hoạt giới                  trẻ Sàigòn cực kỳ náo nhiệt. Hết biểu tình đến hội thảo. Họ quên                  rằng trong cái hỗn loạn Việt Nam chỉ là quân cờ thí. Họ tự hào                  thuộc giới trẻ, họa sĩ trẻ, nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ. Đám sinh                  viên trong đầu đầy mộng cải tạo xã hội và trong túi không có đủ                  tiền uống một ly cà phê. Thỉnh thoảng chứng kiến những vụ pháo                  kích; thỉnh thoảng nhậu vài két la de, lạc rang, củ kiệu, tiễn                  bạn lên đường nhập ngũ. Chiến tranh còn xa, đại bác đêm đêm vọng                  về. Đám tuổi 20 kề vai nhau nghe Lệ Thu ngủ đi em mộng bình                  thường; nghe Thái Thanh ca mẹ Việt nam không son không                  phấn, và xúc động với cái viễn ảnh Việt nam quê hương đất                  nước sáng ngời. Họ tham gia các hoạt động xã hội cứu lụt,                  cải trang xóm nghèo, leo lên làng Thượng dạy học, đào giếng,                  chữa bệnh. 
                 Thập                  niên 60 tôi làm gì? Là phóng viên Việt Nam Thông Tấn Xã, đã đi                  khắp các tỉnh miền Nam. Đi lắm có ngày gặp ma. Quả không sai. Một                  sáng, máy bay C-46 đến Quảng Tín thì bị Cộng quân bắn phát cháy,                  rớt ngoài phi trường. Trong khói mịt mù, tôi theo mọi người nhảy                  ra khỏi phi cơ, cố chạy một khoảng thì quỵ. Khi nghe tiếng trực                  thăng phành phạch, nhìn chung quanh chỉ có cỏ, cát. Cảm giác                  thiêu thiếu một cái gì, rờ mặt, kính cận mất đâu rồi. Sau đó,                  tôi thấy mặt đất nghiêng ngửa, trời xanh, mây trắng vần vũ. Được                  chở về nằm                  ở bệnh viện Đà Nẵng, tôi mới ý thức sâu xa sự hy sinh vô bờ bến                  của thương bệnh binh. Trong khi về lại Saigon, đêm đêm tôi ghé                  các quán xá, tán dốc với bạn, ngắm nụ cười duyên của Bông Hồng;                  còn nghĩa quân, điạ phương quân, cả đời sống                  âm thầm                  vùng heo hút, giữ cho hậu phương có được những sinh hoạt bình                  thường trong thời khói lửa.
                 Và nhờ ở lại sau 30/4/75, tôi mới thấy văn học truyền khẩu thiệt                  là tinh quái. Cái gì cũng có câu vè, câu hát. Trẻ em đồng ca                  ngoài đường rồi ù té chạy: như có bác Hồ trong nhà                  thương chợ Quán thay vì trong ngày vui đại thắng.                                                   Giờ nghĩ lại, thấy đúng quá. Chỉ kẻ điên mới chui vào hậu phương                  lớn Trung Quốc, xem Đại Hán vừa là đồng chí vừa là anh em; gây                  cảnh nội chiến; để rồi Tàu Cộng chiếm đất, thuê rừng, vạch đường                  lưỡi bò, lưỡi trâu. VNCH còn thì làm sao có chuyện đó? Ngoài ra,                  lúc thay tên đường thì có câu Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý,                  Đồng Khởi lên rồi mất Tự Do. Rêu rao bộ đội không lấy                  sợi chỉ cây kim. Nhưng đảng thì lột sạch dân Nam qua việc đổi                  tiền; học tập cải tạo.... Năm đồng đổi lấy một xu,                  thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy. Nguyễn Ngọc Phách đã                  gom lại thành Việt-sử Đương-đại qua 200 câu vè bất hủ; có                  cả bản tiếng Anh Life in Viet Nam. Miền Nam là thuộc địa                  của đảng ta, tệ hơn thời Pháp, khiến giải phóng thành phỏng dái.                  Để tránh, chỉ biết nhào ra biển thôi. 
                 Trong cảnh bát nháo những ngày đó, một hôm đi gần dinh Độc Lập                  thì nghe gọi. TCS bên kia đường đạp xe quẹo qua. Chúng                  tôi trao đổi tin tức về bạn bẻ và lo âu không biết ra sao ngày                  sau? Vài tháng kế, TCS gửi tôi bức thư bốn trang nhờ anh tôi từ                  Huế vào trao lại. Lúc đó lu bu quá, giờ không còn nhớ TCS đã                  viết những gì. Thật tiếc! Đó là liên hệ lần chót. Trước 75 chúng                  tôi hay đàn đúm ở khu Văn khoa. TCS ngụ nơi này. Tôi chỉ mò tới                  tán dốc chớ không phải tới để vô lớp. Thời VNCH sinh viên có thể                  ghi danh nhiều trường khác nhau. Từ tiểu học tới đại học không                  tốn đồng xu cắt bạc nào. Nếu không, mồ côi như tôi, chắc khó                  biết trường học là gì. Trong các bản nhạc tình của họ Trịnh tôi                  thích Nắng Thủy Tinh. TCS có lần đã giải thích cho tôi                  câu ngàn cây thắp nến lên hai hàng; để nắng đi vào trong                 mắt em; tả những tia nắng chiều đọng trên ngọn cây; như                  ngàn cây thắp nến. 
                 Tuy không là sinh viên văn khoa nhưng theo Từ Thức Trần Công                  Sung, ở đây TCS là bạn của mọi người, mỗi người một cách rất tự                  nhiên. Đôi mắt tinh anh, láu lỉnh, nụ cười hiền lành như một                  thầy tu; ông có cái phong thái của một thi nhân, cái khiêm tốn                  của một người có thực tài. TCS ở ngoài đời rất giống TCS người                  ta tưởng tượng khi nghe những bản nhạc tình của họ Trịnh. TCS                  một gã người Huế rất thanh nhã, rất ung dung, từ tốn. Cái ung                  dung, từ tốn quí phái của một con mèo; với nụ cười thường trực                  trên môi. Học chương trình Pháp, nhưng sử dụng tiếng Việt một                  cách rất tài tình. Nhiều chữ tầm thường, chợt trở nên truyền                  cảm; nhiều chữ bịa ra nhưng mang nhiều hình ảnh đến từ một trí                  tưởng tượng phong phú. Không nghe giải thích người ta vẫn xúc                  động, mặc dù không hiểu từng câu, từng chữ. Nhất là trong những                  bản nhạc tình.
                 Ngoài ra, những ai lui tới Quán Văn đều gặp nhưng tất cả đều mù                  tịt về tông tích của một người không tên. Anh ta ngọng, hơi bất                  thường, trạc 30 tuổi, dơ dáy, quần áo lôi thôi, cặp mắt sâu đen,                  lang thang khắp phố; tối về ngủ ở hiên trường góc Nguyễn Trung                  Trực-Gia Long. Riết rồi quen thân với mọi người Ở Một Nơi Ai                  Cũng Quen Nhau; nhưng anh không là bạn của bất kỳ ai.                  Phạm Phú Minh cho biết, có lần anh ta đem cho chúng tôi mấy                  đồng đô la. Chắc có từ lính Mỹ vì anh không biết làm gì                  vớí tiền đó. Một bữa, ngẫu hứng, Phạm Phú Minh đặt tên                  Quasimodo cho anh ta, tuy không gù như nhân vật trong Notre Dame                  de Paris của Victor Hugo. Anh ta có vẻ khoái được gọi với cái                  tên Tây ngồ ngộ này. Phan văn Phùng, người cùng điều hành khu                  đất trống Văn Khoa, một hôm làm thầy bói tiên đoán, nếu vô sản                  thắng thì Quasimodo chắc sẽ là Đô trưởng Saigon; vì anh ta là vô                  sản thứ thiệt, biết hết ngõ ngách thành đô.
                 Thế rồi, mọi người tứ tán. Bông Hồng Quán Văn trôi về đâu? Riêng                  Quasimodo thì xuất hiện trong một truyện ngắn của Nguyễn Thụy                  Long (1938-2009) năm 2001. Nhà văn ở cùng trại với một tù nhân                  hình dạng dị hợm, hôi thúi. Y nằm sát cầu tiêu; bị bắt trong                  chiến dịch làm sạch thành phố, nhằm loại trừ những kẻ không giấy                  tờ. Cán bộ đặt tên cho y là Nguyễn văn Tèo. Một buổi sáng cán bộ                  trực phòng la lớn: thằng Ngợm Quái Vật trốn mất rồi. Thùng phân                  tung toé. Nó chui thoát qua lỗ cầu tiêu! Cuộc trốn trại không                  rùng rợn mà rùng mình. Bị bắt lại, cán bộ giám hiệu đứng                  trên thềm khung nhà vừa bịt mũi vừa hỏi: mày tên gì?                  Ca.si.mo...do. Láo! Tên Tây! Nó bị lôi ra dìm dưới suối và cùm.                  Nhờ được giao dạy cho các tù nhân hình sự biết đọc, nên nhà văn                  lẽn đến chỗ cùm, cho y một tán đường và mì gói. Qua.                  Si.mo.do, tên của tôi trước kia. Tôi trốn đi, tôi muốn về nơi đó.                  Chuyện xảy ra năm 1986. 
                 Sau 30/4/75 Tố Hữu dặn Nguyễn Đắc Xuân vào Saigon nói với                  Phạm Duy và TCS hãy cứ ở đó chứ đừng đi đâu cả. Nhưng                  nhiều anh em Phong Trào ở Saigon không thích quan điểm lập                  trường chung chung của họ Trịnh; vì thế TCS về Huế để có bạn bè                  và để thoát không khí nghi kỵ. Sách còn cho biết tiếp, TCS không                  ngờ về quê hương lại bị dội một gáo nước lạnh. Huế cũng có phong                  trào “Hạ bệ Phạm Duy- Hoàng Thi Thơ và Trịnh Công Sơn”.                  Một buổi tối tọa đàm đã diễn ra tại Hội Văn Nghệ để trả lời câu                  hỏi “TCS có công hay có tội?”. Nhờ xấp tài liệu báo                  Saigon đăng lệnh cấm phổ biến nhạc họ Trịnh có tính thuyết phục                  nên buổi tọa đàm đi đến kết luận: TCS có công lớn hơn có tội với                  cách mạng và giao cho một bạn trao đổi với TCS viết tự nhận xét                  về mình. Chưa quen với lối sinh hoạt nên khi bị Hoàng Phủ Ngọc                  Tường kêu làm lẹ đi, TCS có ý trách là bị ép... 
                 Thời gian ở Huế là một giai đoạn thử thách ghê gớm đối với                  đời sống của TCS. Sách của Nguyễn Đắc Xuân, nhằm chứng minh                  TCS thuộc về bên này hay bên kia, viết                  rõ thêm, TCS có đi lao động sản xuất như mọi người chớ không đi                  lao động cải tạo và vì “ăn ít uống nhiều”, ói mửa mật xanh                  mật vàng ngay tại chỗ nên càng ngày càng gầy rộc đi. TCS là                  anh cả, vốn dĩ được má và 14 em trai gái, dâu rể                                                   chăm sóc rất chu đáo nên chuyện phải tìm cách chuyển công tác về                  lại Saigon năm 1978 là chuyện tất yếu. TCS thích ăn ngon mặc                  đẹp; buổi sáng ra khỏi phòng quần áo đã tươm tất. Như Những                  Dòng Sông, sách của em rể Hoàng Tá Thích, do nhà xuất                  bản Văn Nghệ                                                   in, cho biết                  TCS có cả một tủ quần áo, toàn đồ hàng hiệu và giày thì nhiều                  không đếm xuể; sắp hàng hàng lớp lớp; và thông thường có riêng                  hai người giúp việc; sau này còn có người thứ ba chuyên xoa bóp                  tay chân. 
                                  TCS chịu chơi
                 Tiện nghi vật chất quá dư thừa, lại có nhiều bạn mới thuộc đủ                  thành phần trong xã hôi ngưỡng mộ tài năng; nhưng theo Hoàng Tá                  Thích, những lúc buồn TCS hay để tâm trí quay về thời                  còn trẻ và chỉ ước ao có được một người bạn thuở xa xưa để                 cùng nhau tâm sự. Còn Nguyễn Đắc Xuân thì cho rằng: TCS                  đã “chịu chơi” hơn Văn Cao, Hoàng Cầm, Trần Dần,                  Phùng Quán.... là đã dấn                  thân vào thực                  tế,                  viết phục vụ chính trị của đất nước hòa bình độc lập; có sáng                  tác mới                  như Em ra nông trường, khóc cho những người bạn trẻ nằm                  xuống; nhưng hơi nhạc chưa nhập được với nhịp điệu của                  cuộc sống mới. Trên                                   tờ “Cửa Việt"                                   trả lời câu hỏi tại sao                                   so với trước năm 1975,                  ông viết ít đi và yếu đi,                                   TCS                                   nói,                  ông thấy                  một cái gì đó đã lệch đi trong đời sống tinh thần và tình cảm                  của mình                  và                  không còn bị cám dỗ bởi những giấc mơ nữa;                  đồng thời mất đi việc muốn trình bày điều mới lạ.
                 Một bạn cũ thời Quán Văn và Văn Khoa cuối năm 1999 gặp TCS tại                  Hội văn nghệ Sĩ ở Saigon sau hơn 30 năm xa cách; thấy bạn mình                  vẫn nụ cười hiền lành, nhưng buồn bã, vẫn từ tốn, phong nhã, vẫn                  đôi kính đồi mồi, nhưng trước mắt là một TCS bệnh hoạn, mệt mỏi.                  Từ Thức Trần Công Sung kể lại, TCS cho biết                  rượu đã tàn phá lá gan đến độ không có thuốc trị. Gợi ý về một                  chuyến đi ngoại quốc chữa bệnh, thăm bạn bè, TCS giọng từ                  tốn                  đáp,                                   sang đó,                                                   sợ các ông ấy đập;                  sự thực                  bên Pháp không có vấn đề;                                   kỳ trước,                                                   anh em đãi ngộ rất                                   tử                                                   tế.                                                   TCS                                   tiếp: nói cho đúng                                                   mình mệt                                                   lắm,                                                   có muốn cũng không đi được.                  Đưa                  số điện                                                   thoại                  nhà và dặn: ráng                 đến chơi,                                                   mình có chuyện muốn nói.                                                   Thằng em mình,                                                   biết cậu                                                   về,                                                   chắc nó mừng lắm.                                                   Em TCS cũng hay la cà ở Quán Văn. Có lẽ TCS                  muốn nói những gì không thể nói được ở một nơi có nhiều người                  qua lại.
                 Từ Thức trong Trịnh Công Sơn và Những Ngày Văn Khoa, cho                  hay                                   không có thì giờ tới nhà                                   bạn nên chỉ                                   gọi điện thoại                                   giã từ. TCS                                   giọng                  buồn:                                                   chắc mình không                 có dịp gặp lại anh em nữa.                                                   TCS                                   ra đi ngày 1 tháng tư 2001,                                                   thọ 62 tuổi.                                                   Ngày tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng, theo Hoàng Tá Thich,                 tại nghĩa trang, hàng ngàn người vây quanh mộ, vừa khóc vừa                  hát những ca khúc của anh từ Nối Vòng Tay Lớn, Diễm Xưa, đến                  Biển Nhớ, Mưa Hồng, Một Cõi Đi Về, Nhìn Những Mùa Thu Đi, hát                  mãi không ngừng. Ca khúc Nối Vòng Tay Lớn cũng thường được hát                  trước 1975 trong giới sinh viên học sinh, khi quy tụ sinh viên                  hải ngoại trở về sinh hoạt ở miền Nam và trên đài Saigon ngày                  30/4/75. Mộ TCS nằm cạnh Má, đúng với ý nguyện của anh                  trước khi nhắm mắt. Và Một Cõi Đi Về, Tiến Thoái Lưỡng Nan,                  Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng không ai hát qua được tác giả.
                 Theo người em rể, những bạn bè mới sau ngày đất nước thống nhất                  không biết rõ cuộc đời anh mình. Đúng vậy.Trước năm 1975, Thiếu                  tá Không quân Bằng Phong Đặng văn Âu thường giao du với TCS. Một                  lần bàn về thời sự, Bằng Phong nói, lính tráng bọn này mới mong                  tiếng súng chấm dứt chớ đám phản chiến Ngô Bá Thành, Nguyễn Ngọc                  Lan, Nhất Hạnh.... chỉ là phản chiến bịp. Họ có chết đâu? TCS                  trả lời là ông lên án cả đôi bên. Ông là một nghệ sĩ; không phải                  cán bộ tuyên truyền. Ông giải thích, Đàn bò vào thành                  phố, không còn ai hỏi thăm trong bài Du Mục nêu rõ cái nhìn                  của ông về cuộc nội chiến. Chuyện diễn ra năm 1972, thời mùa hè                  đỏ lửa tại nhà TCS trước chùa Vĩnh Nghiêm Saigon. Đặng văn Âu kể                  lại như vậy khi chúng tôi nhắc tới người bạn cũ, một nhạc sĩ tài                  hoa của miền Nam, có đủ tất cả tật xấu của con người; nhưng                  không đến độ như nhạc sĩ Phạm Tuyên, bố Phạm Quỳnh bị chết thảm,                  bị hạ nhục vẫn sáng mắt, sáng lòng ca tụng kẻ giết bố                  mình.
                                  Đàn bò vào thành phố 
Đêm buồn vắng buồn hơn
Đàn bò vào thành phố
Không còn ai hỏi thăm
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn
Rồi một hôm đứng mơ mây ngàn
Một người vào thành phố
Đếm từng bước buồn tênh
Một người vào thành phố
Không còn ai người quen
Người tìm về đồng xanh
Nhưng đồng đã bỏ không
Rồi người bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn
Người chợt nghe xót xa đất mình
Điệp khúc:
Ôi quê hương đã lầm than
Sao còn, còn chiến tranh
Mẹ già hết chờ mong
Đã ngủ yên
Mẹ già mãi ngủ yên
Buông lời ru cho muôn năm
Buông vòng nôi cho hư không
Cho hư không buông bàn tay
Con đi hoang
Con đi hoang một đời
Con đi hoang phận này
Đàn bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt chuông
Một người vào thành phố
Nghe hồn giá lạnh băng
Người tìm về đầu non
Nhưng rừng đã bỏ hoang
Rồi người bỗng hết buồn đã hết buồn
Người lặng nghe đá lên trong mình
                 Đêm buồn vắng buồn hơn
Đàn bò vào thành phố
Không còn ai hỏi thăm
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn
Rồi một hôm đứng mơ mây ngàn
Một người vào thành phố
Đếm từng bước buồn tênh
Một người vào thành phố
Không còn ai người quen
Người tìm về đồng xanh
Nhưng đồng đã bỏ không
Rồi người bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn
Người chợt nghe xót xa đất mình
Điệp khúc:
Ôi quê hương đã lầm than
Sao còn, còn chiến tranh
Mẹ già hết chờ mong
Đã ngủ yên
Mẹ già mãi ngủ yên
Buông lời ru cho muôn năm
Buông vòng nôi cho hư không
Cho hư không buông bàn tay
Con đi hoang
Con đi hoang một đời
Con đi hoang phận này
Đàn bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt chuông
Một người vào thành phố
Nghe hồn giá lạnh băng
Người tìm về đầu non
Nhưng rừng đã bỏ hoang
Rồi người bỗng hết buồn đã hết buồn
Người lặng nghe đá lên trong mình
                 May có một thời như                  vậy, nên từ 1954-1975,                                                   theo Võ Phiến,                                                   miền Nam đã có một nền văn học thành hình thật nhanh, phát triển                  tưng bừng, vội vã. Sau tháng 4/75 cùng với chiến lợi phẩm và                  hàng tiêu dùng từ Nam tràn ngập Hà nội, các băng nhạc TCS và                  nhạc vàng đã chinh phục miền Bắc; dù rằng Cộng sản Việt Nam đã                  đốt phá năm lần, bảy lượt. Phỏng vấn của Thụy Khuê trong                  chương trình Văn học nghệ thuật RFI, ngày 14 và 21/6/2008, nhà                  văn Vương Trí Nhàn đã thừa nhận Văn học miền Nam đã đi trước                  cũng như đã để lại những thành quả mà bây giờ chúng tôi không dễ                  gì vượt qua. Hơn 35 năm sau, một bài báo trên                                   Báo Thể Thao Văn Hoá ngày 16/11/10 cho biết,                                   ở Hà nôi và Saigon, công chúng vẫn còn yêu thích những dòng nhạc                  cũ vì nó đã ăn vào lòng người nghe từ bao thập niên. Nó vẫn được                  đón chào, và giới trẻ còn thuộc lòng từng lời ca, điệu nhạc; cả                  tên tuổi của từng ca sĩ sở trường thể loại nào.                  
                                  Cũng trong thời gian đó, ở miền Bắc vì văn học và nghệ thuật                  phải phục vụ Đảng nên nhạc sĩ Tô Hải, qua Hồi Ký của một                  thằng Hèn phải la lớn:                                   Văn Học Nghệ                                                   Thuật ở Miền Bắc:                                                   một lỗ hỗng lớn.                  Nhà văn Vương Trí Nhàn trong phỏng vấn của Thụy Khuê còn nói                  rằng,                                   nếu công nhận Văn học miền Nam thì Văn học miền                 Bắc coi như là thua, là kém, là không ra gì cả, thậm chí là                  hỏng, là vứt đi. Vì đâu nên nỗi? Thay vì có một thời như                  thế lại có một thời bao cấp, nô lệ đàn anh                  Trung Quốc, Liên Sô, theo mô hình của họ: nắm bao tử, kiểm soát                  cái đầu. Bác và đảng muốn Việt Nam có                                   nhịp thở đập                  theo những tín                  điều nhập khẩu từ các nước Nga Tàu.                  Ngòai ra, còn bị thiến.                  Họ thiến của tôi                  bộn bàng.                  Cụ Vương Hồng Sễn, la hoảng trong Nửa Đời Còn Lại khi bị                  nhà nước cắt bỏ quá nhiều. Thời đại văn thiến Hồ Chí Minh chỉ                  còn rặt một loại người                  nói dối lem lẽm                  như Nguyễn Khải đã viết. 
                                  Phan Thanh Tâm
                                  Sain Paul, 12/2010
No comments:
Post a Comment