Hoàng Sa Trường Sa Theo Chính Sử Trung Quốc.
Bản đồ cổ của Trung Quốc.
Hình bên: Trung Quốc gọi hai quần đảo: Hoàng sa là Nam Sa - Trường Sa là Tây Sa. Nhưng Bản đồ cổ của Trung Quốc không có tên Nam Sa và Tây Sa. Bản đồ cổ ghi theo tên gọi Việt Nam là Hoàng Sa và Trường Sa (tư liệu tham khảo).
Thời Thế Chiến II, cuối thập niên 1930 Nhật Bản cấu kết với Đức Quốc Xã và Phát Xít Ý để phát động Chiến Tranh Thái Bình Dương. Năm 1938 Nhật chiếm 3 đảo Hoàng Sa là Phú Lâm, Lincoln và Hữu Nhật. Qua năm sau, ngày 30-3-1939, Chính Phủ Đông Kinh ra Tuyên Cáo đòi chủ quyền lãnh thổ tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trước đó, năm 1937, Nhật oanh tạc và tấn công Nam Kinh Thượng Hải trong cuộc chiến tranh không tuyên chiến. Năm 1931, Nhật chiếm Đông Bắc Tỉnh để thành lập Mãn Châu Quốc và đem Phổ Nghi là ông vua cuối cùng của triều Mãn Thanh về làm vua Mãn Châu.
Việc Nhật Bản thôn tính Hoàng Sa và Trường Sa năm 1939 là một hành động xâm lăng võ trang làm bàn đạp tấn công các quốc gia thân Tây Phương tại Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Tân Gia Ba, Miến Điện và Việt Nam. Đặc biệt để thiết lập Mặt Trận Hoa Nam nhằm kết hợp với Mặt Trận Đông Bắc tại Nam Kinh-Thượng Hải. Đây là nguy cơ đe dọa trầm trọng an ninh quốc gia của Trung Hoa. Mặc dầu vậy, Chính Phủ Trùng Khánh vẫn án binh bất động và không lên tiếng phản đối. Trong khi đó, thay mặt Việt Nam, ngày 21-4-1939, Chính Phủ Pháp đã gửi Công Hàm phản kháng hành động xâm lăng phi pháp của Nhật Bản tại Biển Đông Hải, đồng thời công bố chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tại Hà Nội, bàn về “Vụ tranh chấp Biển Đông”, nhà văn Hoàng Đạo trong Nhóm Ngày Nay quan niệm rằng: “Lấy luật mới cũ ra mà nói thì Hoàng Sa là của Việt Nam. Nhưng trên trường quốc tế, người ta không theo luật mới cũ gì cả. Chỉ Có Luật Của Sức Mạnh. Đó là quan điểm thực tiễn theo châm ngôn Kẻ Mạnh Bao Giờ Cũng Có Lý, và Sức Mạnh Là Lẽ Phải. (La raison du plus fort est toujours la meilleure; Might is Right).
Để phản bác quan niệm tiêu cực nói trên, cuốn sách này đề ra nguyên lý căn bản trong việc tổ chức xã hội loài người:
Vì con người không phải là cầm thú nên nhân loại văn minh không chấp nhận Luật Rừng Xanh Mạnh Được Yếu Thua.
Vì con người không phải là tôm cá nên chúng ta phủ nhận quan niệm Cá Lớn Nuốt Cá Bé.
Đó là thời điểm 1939.
35 năm sau, tháng 1-1974, thừa dịp quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Paris 1973, Trung Quốc vận dụng toàn lực chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm phía tây nam là các đảo Hoàng Sa, Quang Hòa, Quang Ảnh, Hữu Nhật, Duy Mộng và Trí Tôn.
Trước đó, hồi tháng 4-1956, thừa dịp quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Geneva 1954, Trung Quốc chiếm 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh phía đông bắc. Đó là vùng biển của Việt Nam có danh xưng là Thất Châu Dương gồm 7 đảo: Phú Lâm, Lincoln, Đảo Hòn Đá, Đảo Cây, Đảo Bắc, Đảo Trung và Đảo Nam.
Năm 1974, từ Paris Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn nhận định rằng: “Hoàng Sa thất thủ là do sự rạn nứt của khối đại đoàn kết dân tộc. Hoàng Sa là đất của Việt Nam, của nước Việt Nam thống nhất. Khi Việt Nam còn chia đôi thì chúng ta không có tư thế để điều đình đòi lại quần đảo này, mặc dầu theo lịch sử có nhiều bằng chứng cho biết đó là đất của Việt Nam”. Do đó muốn giành lại chủ quyền hải phận và hải đảo tại Biển Đông Hải phải có sự đoàn kết quốc dân trong một quốc gia thống nhất.
Đó là cảm nghĩ của nhà trí thức lý tưởng, tha thiết đến tiền đồ đất nước.
Tuy nhiên, từ 1974 đến nay đã 36 năm, thời gian cho biết nhận định này đã tỏ ra không chính xác.
Vì ngày nay đất nước ta đã thống nhất. Và toàn dân ta, với trên 85 triệu người Việt trong và ngoài nước, đã đồng tâm nhất trí đứng lên đấu tranh đòi lại những hải đảo và hải phận đã mất. Vậy mà, theo chiều hướng hiện tại, càng ngày chúng ta càng mất chủ quyền lãnh thổ tại Biển Đông Hải. Lý do không phải vì đất nước chúng ta bị qua phân, mà vì chúng ta có một chính quyền đi trái lòng dân, không cho người dân đứng lên bảo toàn đất tổ và hành sử quyền yêu nước bằng những cuộc biểu dương lực lượng quy mô và đồng loạt khắp nơi trên thế giới làm chấn động dư luận quốc tế và cảnh tỉnh lương tri nhân loại. Đồng thời gây áp lực buộc kẻ xâm lược phải chùn bước xâm lăng, phải tôn trọng danh dự và chữ ký của họ. Và phải ngồi vào bàn hội nghị để các cơ quan trọng tài hay tài phán quốc tế đưa ra những giải pháp công bằng và hợp lý theo tinh thần và bản văn Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển mà họ đã ký kết tham gia năm 1982. Công Ước này là một văn kiện về chính sử và có hiệu lực chấp hành từ năm 1994.
1. Quy Chế Thềm Lục Địa
Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các quốc gia duyên hải được hưởng quy chế Thềm Lục Địa 200 hải lý (370km) để thăm dò và khai thác dầu khí. Đây là quyền tuyệt đối bất khả xâm phạm (sovereign right). Mọi sự chiếm cứ của ngoại bang dầu có võ trang hay không đều bất hợp pháp, vô giá trị và vô hiệu lực (các Điều 77 và 81).
Về mặt địa lý, tại quần đảo Hoàng Sa, đảo Trí Tôn chỉ cách Quảng Ngãi 135 hải lý, và đảo Hoàng Sa chỉ cách lục địa Việt Nam 160 hải lý. Vì vậy quần đảo Hoàng Sa nằm trong Thềm Lục Địa 200 hải lý của Việt Nam.
Trong khi đó các đảo Hoàng Sa cách Hoa Lục tới 270 hải lý nên không nằm trong Thềm Lục Địa của Trung Hoa.
Về mặt địa chất và địa hình đáy biển các chuyên gia quốc tế như Tiến Sĩ Khoa Học Armand Krempt, Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên cứu, đo đạc và vẽ bản đồ các hải đảo và đáy biển, đã lập phúc trình kết luận rằng: “Về mặt địa chất, các đảo Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam”. (Geologiquement les Paracels font partie du Vietnam). Về địa hình đáy biển Hoàng Sa là một cao nguyên chìm dưới đáy biển nối tiếp lục địa Việt Nam. Độ sâu nhất tại vùng biển Hoàng Sa là 900m. (Trong lịch sử hình thành nước Biển Đông Hải đã rút xuống 4,000m). Ngày nay nếu nước biển rút xuống 900m thì các đảo Hoàng Sa sẽ biến thành một dẫy hành lang chạy thoai thoải từ Trường Sơn qua Cù Lao Ré đến các đảo Trí Tôn, Hoàng Sa và Phú Lâm. (Phúc Trình Krempt về Hoàng Sa lập trong hai năm 1925-1927 được lưu trữ tại Văn Khố Trường Viễn Đông Bác Cổ Paris).
Vì đáy biển Hoàng Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền kéo dài ra ngoài biển nên, Chiếu Điều 76 Luật Biển, Việt Nam có triển vọng được Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc cho mở rộng Thềm Lục Địa Pháp Lý 200 hải lý thành Thềm Lục Địa Địa Chất tới 350 hải lý (650km).
Trong khi đó từ Hoàng Sa về lục địa Trung Hoa có một rãnh biển sâu tới 2,300m. Như vậy về mặt địa chất và địa hình đáy biển Hoàng Sa không phải là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Trung Hoa từ đất liền ra ngoài biển. Trong trường hợp này Trung Hoa không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Địa Chất hay Thềm Lục Địa Mở Rộng.
Tại Trường Sa cũng vậy, độ sâu tại Bãi Thanh Long-Tứ Chính chỉ vào khoảng 400m, và tại đảo Trường Sa và cồn An Bang, độ sâu chỉ tới 200m. Như vậy về mặt địa chất và địa hình đáy biển, cũng như tại Hoàng Sa, các đảo Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra ngoài biển. Theo quan điểm của các Luật Sư Covington và Burling trong Bản Tường Trình tháng 6-1995 gửi Chính Phủ Việt Nam, quần đảo Trường Sa có triển vọng được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng đến 350 hải lý.
Trong khi đó từ Trường Sa về bờ biển Quảng Đông có một rãnh biển sâu tới 4,550m. Như vậy các đảo Trường Sa không phải là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Trung Hoa từ đất liền ra ngoài biển. Và Trung Quốc không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng 350 hải lý. Dầu sao, trong mọi trường hợp, khoảng cách từ Hoa Lục tới Trường Sa là 750 hải lý (hai lần quá tầm 350 hải lý Thềm Lục Địa Mờ Rông nếu có).
Hơn nữa, về mặt địa lý, tại Biển Đông Hải, Bãi Tứ Chính và đảo Trường Sa chỉ cách lục địa Việt Nam từ 150 đến 220 hải lý. Trong khi đó các đảo Trường Sa cách lục địa Trung Hoa từ 550 đến 800 hải lý nên không nằm trong Thềm Lục Địa Trung Hoa.
Bản Tường Trình Chính Phủ Bắc Kinh nạp Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc hồi tháng 5-2009 vừa qua chỉ đề cập đến hải phận chứ không vẽ Thềm Lục Địa Mở Rộng theo các tiêu chuẩn luật định về khoa học và kỹ thuật. Cũng vì vậy Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc sẽ bác bỏ không cứu xét đơn thỉnh nguyện của Bắc Kinh. Để trốn tránh vấn đề và làm lạc hướng dư luận, Trung Quốc chỉ đơn thuần đòi vùng biển phác họa theo hình chữ U mà họ gọi là Lưỡi Rồng Trung Quốc hay Biển Lịch Sử của Trung Hoa.
Biển Lịch Sử Trung Hoa (mà dân gian gọi là Lưỡi Bò) chiếm 80% hải phận Biển Đông Nam Á. Nó nằm sát bờ biển các nước Đông Nam Á, chỉ cách Quảng Ngãi 40 hải lý và cách Phi Luật Tân và Mã Lai 25 hải lý. Như vậy nó tước đoạt 160 hải lý của Thềm Lục Địa Việt Nam, và 175 hải lý của các Thềm Lục Địa Phi Luật Tân và Mã Lai. Biển Lịch Sử Trung Hoa hiển nhiên vi phạm Công Ước về Luật Biển dành độc quyền cho các quốc gia duyên hải như Việt Nam, Phi Luật Tân và Mã Lai được hưởng tối thiểu 200 hải lý Thềm Lục Địa luật định để thăm dò và khai thác dầu khí.
Theo học giả Mark J. Valencia tại Viện Hải Học Đông Tây Hawaii (East-West Institute), yêu sách của Trung Quốc về Biển Lịch Sử không được Luật Pháp và Tòa Án chấp nhận. Ngày nay càng ngày dư luận càng phê phán và chế giễu Lưỡi Rồng Trung Quốc là khôi hài và lố bịch (China’s claim is being increasingly criticized and even ridiculed: China and the South China Sea Disputes, Mark J. Valencia, Oxford University Press. October 1995).
Hồi thế kỷ thứ nhất tây lịch Đế Quốc La Mã đòi chủ quyền lãnh thổ toàn vùng Biển Địa Trung Hải mà họ gọi là “Biển Lịch Sử Của Chúng Tôi!” (Mare Nostrum: Notre Mer/ Our Sea). Địa Trung Hải là vùng biển bao la chạy từ bờ biển Tây Ban Nha qua Pháp, Ý, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ đến các vùng biển Trung Đông và Bắc Phi.
Từ 1955, để phục hồi Chủ Nghĩa Bá Quyền, Mao Trạch Đông lại đưa ra thuyết Biển Lịch Sử đòi chủ quyền lãnh thổ tại vùng biển và các hải đảo Hoàng Sa Trường Sa. Theo ngoa ngôn của Bắc Kinh Lưỡi Rồng Trung Quốc rộng bằng phân nửa lục địa Trung Hoa. Họ cho đó là một vấn đề bất khả tranh nghị.
Về điểm này chúng ta nhắn nhủ nhà cầm quyền Bắc Kinh rằng: Trong thế kỷ này và dưới vòm trời này, không có điều gì, việc gì, hay vấn đề gì là bất khả tranh nghị. Về mặt tinh thần, văn hóa và đạo lý, Trung Quốc không thể nói một đàng làm một nẻo. Họ phải tôn trọng danh dự và chữ ký để công khai đưa ra trước thanh thiên bạch nhật, những tài liệu, lý lẽ và quan điểm cho biết tại sao và vì lý do gì Trung Quốc đòi tước đoạt chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia Đông Nam Á tại các Thềm Lục Địa như đã quy định trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc đã ký kết tham gia với tư cách một trong Ngũ Cường hội viên thường trực Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết? Nếu không đưa ra giải thích hợp lý thì Trung Quốc vẫn chỉ là kẻ sử dụng Luật Rừng Xanh theo chủ trương Cá Lớn Nuốt Cá Bé. Để tước đoạt 4/5 Thềm Lục Địa của Việt Nam (chỉ còn 40 hải lý trong số 200 hải lý), đồng thời tước đoạt 7/8 Thềm Lục Địa của Phi Luật Tân và Mã Lai (chỉ còn 25 hải lý trong số 200 hải lý).
Hơn nữa, như đã trình bầy, chiếu các Điều 77 và 81 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, chủ quyền của các quốc gia duyên hải tại các thềm lục địa có tính tuyệt đối (sovereign right). Bất cứ sự xâm phạm nào của ngoại bang dầu là xâm chiếm võ trang hay không võ trang cũng đều bất hợp pháp, vô giá trị và vô hiệu lực. Cũng như việc Nhật Bản đã chiếm cứ bất hợp pháp các hải đảo và hải phận tại Hoàng Sa và Trường Sa thời Thế Chiến II.
Chắc hẳn Trung Quốc cũng hay biết rằng Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 là một văn kiện pháp lý rút trong chính sử mà trên một trăm quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc phải tôn trọng và thực thi. Trung Quốc không thể tự mình coi mình là một ngoại lệ.
Ngoài Công Ước về Luật Biển 1982, còn có rất nhiều tài liệu lịch sử khác rút ra từ chính sử theo đó chủ quyền của Việt Nam tại các hải phận và hải đảo Hoàng Sa Trường Sa đã được thừa nhận bởi các quốc gia trên thế giới trong đó có Trung Quốc.
2. Trung Quốc đã Khước Từ Chủ Quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa trong Tuyên Cáo Cairo và Nghị Quyết Tehran năm 1943
Trong khi Thế Chiến II còn đang tiếp diễn, năm 1943, ba cường quốc đồng minh đại diện bởi Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt, Thủ Tướng Anh Churchill và Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã hội nghị tại Cairo (Ai Cập), và đã ký Tuyên Cáo Cairo ngày 27-11-1943 trong đó có đoạn như sau:
“Đối tượng của các quốc gia đồng minh là tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả các lãnh thổ và hải đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật đã cưỡng chiếm từ khi khởi sự Thế Chiến I. Tất cả các lãnh thổ và hải đảo mà Nhật Bản đã chiếm đoạt của nhân dân Trung Hoa như Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ phải giao hoàn cho Trung Hoa Dân Quốc”. Điều đáng lưu ý là, tại Hội Nghị Cairo Tổng Thống Tưởng Giới Thạch không đòi Hoàng Sa và Trường Sa. Và như vậy đã khước từ chủ quyền tại hai quần đảo này. (U. N. Treaty Series, American Policy 1950-1955).
Năm 1931, bằng chiến tranh võ trang, Nhật xâm chiếm Mãn Châu để thành lập “Mãn Châu Quốc”. Lúc này theo khuyến cáo của Luật Sư Ngoại Trưởng Henry Stimson, Tổng Thống Hoa Kỳ Herbert Hoover đề ra Chủ Thuyết Stimson theo đó Hoa Kỳ sẽ không thừa nhận các quốc gia hay chính phủ thiết lập do chiến tranh võ trang. Năm 1931, Hoa Kỳ và Anh Quốc đã áp dụng Chủ Thuyết Stimson khi Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu bằng võ lực. Cũng vì vậy trong Tuyên Cáo Cairo 1943 Tổng Thống Roosevelt và Thủ Tướng Churchill tán thành đề nghị của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch về việc Đồng Minh sẽ giao hoàn Mãn Châu cho Trung Quốc khi chiến tranh kết liễu.
Trước đó, trong Chiến Tranh Trung-Nhật 1894-1895, đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ cũng bị Nhật Bản chiếm cứ bằng võ lực nên cũng sẽ phải giao hoàn cho Trung Quốc.
Tại Biển Đông Hải, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng đã bị Nhật Bản chiếm cứ bằng võ lực hồi khởi sự Thế Chiến II. Năm 1939 Nhật Bản đổi tên Hoàng Sa thành Hirala Genho và Trường Sa thành Shinnan Genho. Nếu quả thật hai quần đảo này thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc thì lẽ cố nhiên Tổng Thống Tưởng Giới Thạch cũng đã đề nghị giao hoàn Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc tại Hội Nghị Cairo 1943.
Theo công pháp quốc tế Tuyên Cáo Cairo 1943 là một hiệp ước quốc tế tạo nên những nghĩa vụ quốc tế áp dụng cho các quốc gia liên hệ. Nó có hiệu lực cưỡng hành đối với Trung Quốc, dầu là Trung Hoa Dân Quốc hay Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là quốc gia kế thừa chủ quyền. Đặc biệt là, trong hiện vụ, cả hai phe Quốc Cộng Trung Hoa đều xác nhận như vậy.
Thật vậy, ngày 4-12-1950, Chu Ân Lai, lúc này là ngoại trưởng, tuyên bố tán thành Bản Tuyên Cáo Cairo là văn kiện quốc tế mà Hoa Kỳ, Anh Quốc và Trung Quốc đã ký kết để làm căn bản cho Hòa Ước với Nhật Bản (Hòa Ước San Francisco 1951). Chou En Lai’s Statement on the Peace Treaty with Japan. (People’s China, 12-16-1950)
12 năm sau khi ký, ngày 8-2-1955, trong bản “Duyệt Lại Tình Hình Thế Giới” Tổng Thống Tưởng Giới Thạch cũng xác nhận Tuyên Cáo Cairo và Tuyên Ngôn Potsdam đã phản ảnh chính xác sự thật lịch sử:
“Tôi còn nhớ năm 1943 cố Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt và Thủ Tướng Anh Churchill đã cùng tôi họp Hội Nghị Cairo để thảo luận về những vấn đề liên quan đến việc tiến hành Chiến Tranh Chống Nhật. Trong Bản Tuyên Cáo công bố vào ngày bế mạc Hội Nghị (27-11-1943) chúng tôi loan báo rằng tất cả các lãnh thổ mà Nhật đã chiếm của Trung Quốc, kể cả Đông Bắc Tỉnh (Mãn Châu), Đài Loan và Bành Hồ, phải được giao hoàn cho Trung Quốc. Bản Tuyên Cáo này đã được Tuyên Ngôn Potsdam (ngày 26-7-1945) thừa nhận và được Nhật Bản chấp nhận thi hành khi đầu hàng. Như vậy giá trị Tuyên Cáo Cairo đặt căn bản trên những thỏa thuận không ai có thể dị nghị được”. (Review of International Situation, China Publishing Co, Taipei, p.p 22-23, 1956)
Tuyên Cáo Cairo ngày 27-11-1943 cũng đã được Liên Sô tán thành tại Hội Nghị Tehran ngày 30-11-1943 giữa Tổng Thống Roosevelt, Thủ Tướng Churchill và Chủ Tịch Stalin. Trong phiên Hội Nghị này Stalin cho biết ông đã đọc Tuyên Cáo Cairo với đầy đủ nội dung của nó. Ông cũng nhìn nhận rằng việc giao hoàn Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ cho Trung Quốc là hợp lý. (The Conferences at Cairo and Tehran 1943, The Foreign Relations of the United States, Washington D.C, 1961)
3. Đồng Minh Không Thừa Nhận Chủ Quyền của Trung Quốc tại Biển Đông Hải trong Tuyên Ngôn Potsdam 1945.
Tháng 5-1945 Đức Quốc Xã đầu hàng Đồng Minh. Hai tháng sau Tam Cường Mỹ, Anh và Liên Sô họp Hội Nghị Potsdam (Đức) để thảo luận về tương lai chính trị, đặc biệt về vấn đề tổ chức tuyển cử tại các nước Đông Âu và Trung Âu. Tuyên Ngôn Potsdam ngày 26-7-1945 còn ấn định thể thức giải giới quân đội Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh tại Thái Bình Dương. Để tước khí giới quân đội Nhật, Đồng Minh quyết định chia Việt Nam thành 2 khu vực giải giới theo Vĩ Tuyến 16 Bắc: Quân đội Trung Hoa có nghĩa vụ giải giới và hồi hương quân đội Nhật tại phía Bắc Vĩ Tuyến 16. Và quân đội Anh được ủy nhiệm giải giới và hồi hương quân đội Nhật từ Vĩ Tuyến 16 vào Nam. (Japan Subdued: The End of The War in the Pacific, Princeton Press University, 1961).
Theo Tuyên Ngôn Potsdam, Trung Quốc chỉ có nghĩa vụ giải giới quân đội Nhật từ Vĩ Tuyến 16 ra Bắc kể cả tại quần đảo Hoàng Sa tọa lạc tại Vĩ Tuyến 16 (Nhóm Lưỡi Liềm tại vỹ tuyến 16.20 và Nhóm An Vĩnh tại vỹ tuyến 16.50). Trong khi đó quân đội Anh Quốc có nghĩa vụ giải giới quân đội Nhật từ Vĩ Tuyến 16 vào Nam, kể cả tại quần đảo Trường Sa tọa lạc tại các Vĩ Tuyến từ 12 đến 7 (từ Cam Ranh xuống Nam Cà Mâu).
Giải giới quân nhân không phải là tiếp thu hay chiếm hữu lãnh thổ. Do đó nếu Anh Quốc không có chủ quyền lãnh thổ tại Trường Sa, thì Trung Quốc cũng không có chủ quyền lãnh thổ tại Hoàng Sa. Và dĩ nhiên, Trung Quốc cũng không có chủ quyền lãnh thổ tại Trường Sa.
Tại phía Bắc Vĩ Tuyến 16, về việc giải giới quân đội Nhật, ngày 28-2-1946 Trung Quốc đã ký với Pháp Hiệp Ước Trùng Khánh theo đó Pháp “khước từ trị-ngoại pháp-quyền và các quyền liên hệ khác tại Trung Hoa” (chủ yếu là Pháp trả Trung Quốc các tô giới tại Thượng Hải và Quảng Châu Loan). Để bù lại Trung Quốc đồng ý để quân đội Pháp đổ bộ lên Bắc Việt thay thế quân đội Trung Hoa tước khí giới các binh sĩ Nhật tại phía Bắc Vĩ Tuyến 16. (Jean R. Sainteny: Histoire D’une Paix Manquée, Indochine 1945-1947).
Một tuần sau Hiệp Ước Trùng Khánh, Chính Phủ Pháp ký với Chính Phủ Hà Nội Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny ngày 6-3-1946, theo đó Pháp thừa nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Về mặt quân sự, 15 ngàn quân Pháp được trú đóng tại Việt Nam trong thời hạn 5 năm. Chính Phủ Hà Nội cam kết sẽ tiếp đón quân đội Pháp theo tinh thần hợp tác quốc tế khi quân đội này kéo vào Bắc Việt để thay thế quân đội Trung Hoa giải giới quân đội Nhật.
Việc này cho biết, khác với Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ, Đồng Minh xác nhận Hoàng Sa Trường Sa không thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Vì tại Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ, Trung Quốc có quyền tiếp thu và tự mình đứng ra giải giới quân đội Nhật Bản mà không phải nhờ đến các quốc gia đồng minh Anh Pháp.
4. Hòa Ước San Francisco 1951 Thừa Nhận Chủ Quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Mùa Xuân 1945, 51 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc. 6 năm sau, năm 1951, 51 quốc gia đồng minh lại họp Hội Nghị để ký Hòa Ước Cựu Kim Sơn ngày 8-9-1951. Mục đích để chấm dứt tình trạng chiến tranh, phục hồi và tái thiết Nhật Bản nhằm xây dựng hòa bình thế giới trong tinh thần hòa giải, hợp tác và hữu nghị theo tôn chỉ của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, và phỏng theo Kế Hoạch Marshall được thi hành từ 1947 để tái thiết Âu Châu.
Lúc này Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã cướp chính quyền bằng võ trang tại Hoa Lục, và Chính Phủ Trung Hoa Dân Quốc đã di tản sang Đài Loan. Trong điều kiện chính trị này các Quốc Gia Đồng Minh Tây Phương không thừa nhận Chính Phủ Bắc Kinh chiếu Chủ Thuyết Stimson được áp dụng trong vụ Mãn Châu năm 1931. Do đó cả hai Chính Phủ Quốc-Cộng Trung Hoa đều không được mời tham dự Hội Nghị Hòa Bình San Francisco 1951.
Trước đó, ngày 8-3-1949, Pháp ký với Việt Nam Hiệp Định Elysee để trả độc lập cho Quốc Gia Việt Nam. Tháng 4-1949, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ thuộc địa để sát nhập Nam Phần vào Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất. Từ đó Việt Nam có tư cách tự bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Với tư cách này, Việt Nam được mời tham dự Hội Nghi San Francisco 1951.
Ngày 12-7-1951 các Cường Quốc Anh Mỹ tổ chức Hội Nghị đã phổ biến bản Dự Thảo Hòa Ước. Điều 2 về Lãnh Thổ (Territory) đề cập đến 4 vấn đề chủ yếu sau đây:
(a) Nhật Bản nhìn nhận nền độc lập của Triều Tiên. [sau khi thắng Nga
năm 1905, Nhật thiết lập chế độ thuộc địa tại Triều Tiên].
(b) Nhật Bản khước từ chủ quyền tại các đảo Kurile và Sakhalin [để giao hoàn cho Liên Sô. Trước Chiến Tranh Nhật-Nga năm 1905 các đảo này thuộc chủ quyền của Vương Quốc Nga].
(c) Nhật Bản khước từ chủ quyền tại đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ [để giao hoàn cho Trung Quốc. Những đảo này Nhật Bản đã chiếm của Trung Quốc trong Chiến Tranh Trung-Nhật 1895].
(d) Nhật Bản khước từ chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [để giao hoàn cho Việt Nam].
Đây là một quyết định hợp lý. Vì nếu Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc [cũng như Đài Loan và Bành Hồ] thì Điều 2 Hòa Ước San Francisco không cần phải chia thành hai đề mục riêng biệt (c) và (d), mà chỉ cần ghi “để giao hoàn cho Trung Quốc Đài Loan, Bành Hồ, Hoàng Sa và Trường Sa”.
Khi Nhật Bản tuyên bố từ bỏ mọi quyền về Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội Nghị Hòa Bình San Francisco 1951, các quốc gia tham dự Hội Nghị đã phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc, và mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Việt Nam tại 2 quần đảo này. Thật vậy:
Ngày 5-9-1951, trong phiên Khoáng Đại Hội Nghị thứ 5, Ngoại Trưởng Liên Sô Andrei Gromyko đệ trình tu chính án yêu cầu Hội Nghị trao Đài Loan, Bành Hồ, Trường Sa và Hoàng Sa (Nam Sa và Tây Sa) cho Trung Quốc. Tu chính án này đã bị Hội Nghị bác bỏ với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và 1 phiếu trắng (Tỷ lệ chống đối là 94%).
Ngày 7-9-1951, trong phiên Khoáng Đại Hội Nghị thứ 7, Thủ Tướng Trần Văn Hữu, Trưởng Phái Đoàn Quốc Gia Việt Nam lên diễn đàn công bố chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa và không gặp sự phản kháng nào của các quốc gia tham dự Hội Nghị.
Qua hôm sau, ngày 8-9-1951 các quốc gia tham dự Hội Nghị San Francisco chấp thuận toàn bộ Bản Dự Thảo Hòa Ước ngày 12-7-1951 đặc biệt là Điều 2 quy định việc giao hoàn các hải đảo tại Thái Bình Dương cho Liên Sô, Trung Quốc và Việt Nam.
Về mặt pháp lý và với sự công bố chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trước 51 quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc tham dự Hội Nghị San Francisco 1951, chúng ta khẳng định rằng: Từ 1951 các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được các quốc gia trên thế giới thừa nhận thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, chứ không thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Việc đại đa số các Quốc Gia Đồng Minh thừa nhận chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa Trường Sa có giá trị tuyệt đối (erga omnus: full force and credit), kể cả đối với những quốc gia không tham dự Hội Nghị như Trung Quốc và Đài Loan. (Conference for the Conclusion and Signature of the Peace Treaty with Japan, U. N. Treaty Series, Volume 136, p. 46).
Ba năm sau Hội Nghị Geneva 1954 đã minh thị xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
5. Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 Minh Thị Xác Nhận các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Chủ Quyền Lãnh Thổ của Việt Nam
Tháng 7-1954, để giải quyết Chiến Tranh Đông Dương, Hội Nghị Geneva được triệu tập với sự tham dự của 9 quốc gia gồm Ngũ Cường Mỹ, Anh, Pháp, Liên Sô và Trung Quốc, cùng Ai Lao, Cao Miên và 2 nước Việt Nam là Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc). Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 một lần nữa, đã minh thị xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa (lúc này là Quốc Gia Việt Nam) tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thật vậy:
a). Theo Điều 4 Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 “giới tuyến giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam (Vĩ Tuyến 17) kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển.
“Lực lượng Liên Hiệp Pháp (gồm có Quốc Gia Việt Nam, Pháp và đồng minh) phải rút khỏi tất cả các hải đảo tại phía Bắc giới tuyến (Vĩ Tuyến 17).
“Quân đội Nhân Dân Việt Nam (Bắc Việt) phải rút khỏi tất cả các hải đảo về phía Nam giới tuyến” (Vĩ Tuyến 17). Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tọa lạc về phía Nam từ vỹ tuyến 17 đến vỹ tuyến 7 (Quảng Trị-Nam Cà Mâu). Do đó
chiếu Hiệp Định Geneva 1954, quân đội Bắc Việt phải triệt thoái ra khỏi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tọa lạc về phía nam Vĩ Tuyến 17 (Quảng Trị-Nam Cà Mâu). Và, lẽ tất nhiên, tất cả các quân đội ngoại quốc khác (kể cả Trung Quốc và nhất là Trung Quốc) phải tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Quốc Gia Việt Nam và không được chiếm cứ hay đồn trú tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. (Kể từ 1955 Quốc Gia Việt Nam lấy quốc hiệu là Việt Nam Cộng Hòa).
Vì Bắc Việt không có chủ quyền lãnh thổ từ Vĩ Tuyến 17 trở vào Nam nên Chính Phủ Hà Nội không có tư cách sở hữu chủ để chuyển nhượng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho bất cứ quốc gia đệ tam nào, kể cả Trung Quốc và nhất là Trung Quốc. Kết quả là Công Hàm Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai ngày 14-9-1958 không có giá trị và hiệu lực pháp lý.
b). Hơn nữa Điều 24 Hiệp Định Geneva 1954 còn buộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa: “Hiệp định này áp dụng cho tất cả các lực lượng vũ trang của đôi bên. Lực lượng vũ trang của mỗi bên sẽ phải tôn trọng lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của bên kia và không có hành động nào chống phá hay phong tỏa (bên kia), danh từ lãnh thổ bao gồm cả hải phận và không phận”.
c). Ngoài ra Điều 12 Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng của Hội Nghị Geneva ngày 21-7-1954 cũng khẳng định: “Các quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva (trong đó có Trung Quốc) cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”. (Trung Quốc là một trong 9 quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva 1954 với Anh Quốc và Liên Sô là đồng chủ tịch). (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Vì Độc Lập Hòa Bình: Đông Dương 1945-1973, Saigon, 1973 do Đại Nam tái bản tại California).
d). Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (1998) cũng khuyến cáo các quốc gia hội viên tránh mọi vi phạm tập thể, thô bạo và có hệ thống bắt nguốn từ sự kỳ thị chủng tộc, đô hộ hay chiếm đóng, gây hấn hay đe dọa chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ bằng cách phủ nhận quyền dân tộc tự quyết và quyền của các dân tộc được hành sử đầy đủ chủ quyền đối với các tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước”.
Căn cứ vào những tài liệu lịch sử quốc tế nói trên, Trung Quốc đã ý thức được sự yếu kém của họ về cả ba mặt pháp lý, địa lý và lịch sử. Do đó Trung Quốc không bao giờ dám công khai thảo luận về vấn đề tranh chấp chủ quyền các hải đảo và hải phận tại Biển Đông Hải. Họ thường nói đó là một vấn đề bất khả tranh nghị. Lý do đơn giản là vì họ không có tài liệu hay lý lẽ gì để đưa ra tranh nghị công khai.
Tất cả lý sự và lập trường của Trung Quốc chỉ thu gọn trong câu: “Biển Nam Hoa là Biển Lịch Sử của Trung Quốc”. Cũng như cách đây 2000 năm, trong thế kỷ thứ nhất, Đế Quốc La Mã cũng đã từng tuyên bố “Địa Trung Hải là Biển Lịch Sử của Chúng Tôi”. Theo các luật gia và chuyên viên hải học, thuyết biển lịch sử đã lỗi thời từ hàng ngàn năm nay.
Chiếu Điều 8 Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển:
“Tòa Án Quốc Tế chỉ quan niệm Biển Lịch Sử là Nội Hải nghĩa là vùng biển tọa lạc bên trong đất liền, về phía bên trong đường cơ sở của Biển Lãnh Thổ. Ngoại trừ trường hợp các quốc gia quần đảo (như Phi Luật Tân hay Nhật Bản) Biển Lịch Sử hay nội hải của một quốc gia nằm bên trong đất liền hay về phía bên trong đường cơ sở của biển lãnh thổ”. (The International Court of Justice has defined historic waters as “internal water” (Fisherys cases UK vs. Norway, 1951, I. C. J. 116, 130); “Waters on the landward side of the baseline of the territorial sea form part of the internal water of the State” (Art. 8 LOS Convention 1982).
Trong khi đó Biển Đông Hải hay Biển Nam Hoa là ngoại hải rộng tới 2000 cây số từ lục địa Trung Hoa đến bờ biển Nam Dương.
Nói tóm lại :
A. Theo chính sử Trung Quốc “suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết đến đại dương”. Trong các thế kỷ thứ 3 và thứ 2 Trước Công Nguyên, thản hoặc cũng có những đoàn thám hiểm đại dương đến Nhật Bản hay Đông Trung Quốc Hải. Mục đích để đi kiếm những dược phẩm có tác dụng đem lại trường sinh bất tử cho nhà vua (Tần Thủy Hoàng). Và trong thế kỷ 15 cũng có những đoàn thám hiểm đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập bang giao với nhiều quốc gia duyên hải, đồng thời khai triển Con Đường Tơ Lụa tại Nam Á, Trung Đông và La Mã. Những chuyến du hành của phái bộ Trịnh Hòa không phải để chinh phục vùng biển Nam Hoa nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà chỉ nhằm thám hiểm Ấn Độ Dương. Trạm trú chân duy nhất của phái bộ Trịnh Hòa là Đồ Bàn hay Trà Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành. Sau khi Minh Thành Tổ mất, dư luận triều đình nhà Minh đã phê phán những cuộc hải trình nặng phần trình diễn của Trịnh Hòa là đã làm suy yếu nền kinh tế quốc gia.
“Throughout most of their long history of cultural and scientific development, the Chinese people have been but passively interested in the ocean. Historical records indicate that from time to time the Chinese authorities sent out maritime exploring expeditions, notably those to Japan as early as the second and third centuries B.C., and to Southeast Asia, India, and Africa during the fifteenth century. Apparently there have been few, if any, planned deep penetrations of the Pacific Ocean by the Chinese during their long history. But Chinese traders did follow the land and water trade routes to India and beyond to Africa and the Middle East, prior to the Renaissance. Chiao-Min Hsieh. Chinese History Middle Ages: China Academy, Taipei, 1978, p. 287.
“During a period of twenty-eight years, from 1405 to 1433 Admiral Cheng Ho led seven exploring expeditions into the Pacific and Indian Oceans and visited more than thirty-seven countries. The large exploring expeditions that were to cross the South China Sea and explore the Indian Ocean were criticized by the court as poor to (an impoverishment of) the country. Chiao-Min Hsieh, Ibid, p. 290-291.
“The Chinese expeditions were diplomatic not commercial, much less piratical or colonizing ventures. John King Fairbank, China, A New History: Harvard University Press, p. 138”
B. Hoàng Sa Trường Sa tọa lạc tại Thềm Lục Địa Việt Nam nên không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Hoa.
C. Thuyết Biển Lịch Sử của Trung Hoa tại Biển Đông Nam Á đã bị tòa án quốc tế và luật pháp quốc tế phủ nhận. Trước dư luận quốc tế nó càng ngày càng trở nên khôi hài và lố bịch.
D. Tín Nghĩa và Quyền Mưu
Muốn hội nhập vào cộng đồng nhân loại văn minh, thay vì tổ chức các thế vận hội về thể dục thể thao cũng như các hội chợ thế giới về văn hóa kỹ thuật, Bắc Kinh nên trở về với tín nghĩa, pháp lý và đạo lý. Bằng cách tôn trọng danh dự và chữ ký của họ để nghiêm chỉnh thực thi Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển mà họ đã ký kết tham gia từ 28 năm nay. Nếu đi ngược lại trào lưu tiến hóa của nhân loại văn minh trọng pháp, Trung Quốc sẽ bị các quốc gia trên thế giới chê cười và tẩy chay do thái độ tiền hậu bất nhất, nói một đàng làm một nẻo.
Theo các nhà minh triết cổ kim có hai con đường lập quốc:
Lấy tín nghĩa và đạo lý mà lập quốc là theo chính đạo.
Lấy mưu mô quỷ quyệt mà trị nước là theo tà đạo. Con đường này sẽ đưa đất nước đến suy vong.
(Tín nghĩa lập nhi nhân đạo, quyền mưu lập nhi vong quốc).
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
Thuyết Trình tại California ngày 25-4-2010
Đồng thời phổ biến tập biên khảo “Đông Hải với Hoàng Sa Trường Sa theo Chính Sử, Ngoại Sử và Văn Học Sử Trung Quốc”
Hình bên: Trung Quốc gọi hai quần đảo: Hoàng sa là Nam Sa - Trường Sa là Tây Sa. Nhưng Bản đồ cổ của Trung Quốc không có tên Nam Sa và Tây Sa. Bản đồ cổ ghi theo tên gọi Việt Nam là Hoàng Sa và Trường Sa (tư liệu tham khảo).
Thời Thế Chiến II, cuối thập niên 1930 Nhật Bản cấu kết với Đức Quốc Xã và Phát Xít Ý để phát động Chiến Tranh Thái Bình Dương. Năm 1938 Nhật chiếm 3 đảo Hoàng Sa là Phú Lâm, Lincoln và Hữu Nhật. Qua năm sau, ngày 30-3-1939, Chính Phủ Đông Kinh ra Tuyên Cáo đòi chủ quyền lãnh thổ tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trước đó, năm 1937, Nhật oanh tạc và tấn công Nam Kinh Thượng Hải trong cuộc chiến tranh không tuyên chiến. Năm 1931, Nhật chiếm Đông Bắc Tỉnh để thành lập Mãn Châu Quốc và đem Phổ Nghi là ông vua cuối cùng của triều Mãn Thanh về làm vua Mãn Châu.
Việc Nhật Bản thôn tính Hoàng Sa và Trường Sa năm 1939 là một hành động xâm lăng võ trang làm bàn đạp tấn công các quốc gia thân Tây Phương tại Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Tân Gia Ba, Miến Điện và Việt Nam. Đặc biệt để thiết lập Mặt Trận Hoa Nam nhằm kết hợp với Mặt Trận Đông Bắc tại Nam Kinh-Thượng Hải. Đây là nguy cơ đe dọa trầm trọng an ninh quốc gia của Trung Hoa. Mặc dầu vậy, Chính Phủ Trùng Khánh vẫn án binh bất động và không lên tiếng phản đối. Trong khi đó, thay mặt Việt Nam, ngày 21-4-1939, Chính Phủ Pháp đã gửi Công Hàm phản kháng hành động xâm lăng phi pháp của Nhật Bản tại Biển Đông Hải, đồng thời công bố chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tại Hà Nội, bàn về “Vụ tranh chấp Biển Đông”, nhà văn Hoàng Đạo trong Nhóm Ngày Nay quan niệm rằng: “Lấy luật mới cũ ra mà nói thì Hoàng Sa là của Việt Nam. Nhưng trên trường quốc tế, người ta không theo luật mới cũ gì cả. Chỉ Có Luật Của Sức Mạnh. Đó là quan điểm thực tiễn theo châm ngôn Kẻ Mạnh Bao Giờ Cũng Có Lý, và Sức Mạnh Là Lẽ Phải. (La raison du plus fort est toujours la meilleure; Might is Right).
Để phản bác quan niệm tiêu cực nói trên, cuốn sách này đề ra nguyên lý căn bản trong việc tổ chức xã hội loài người:
Vì con người không phải là cầm thú nên nhân loại văn minh không chấp nhận Luật Rừng Xanh Mạnh Được Yếu Thua.
Vì con người không phải là tôm cá nên chúng ta phủ nhận quan niệm Cá Lớn Nuốt Cá Bé.
Đó là thời điểm 1939.
35 năm sau, tháng 1-1974, thừa dịp quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Paris 1973, Trung Quốc vận dụng toàn lực chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm phía tây nam là các đảo Hoàng Sa, Quang Hòa, Quang Ảnh, Hữu Nhật, Duy Mộng và Trí Tôn.
Trước đó, hồi tháng 4-1956, thừa dịp quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Geneva 1954, Trung Quốc chiếm 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh phía đông bắc. Đó là vùng biển của Việt Nam có danh xưng là Thất Châu Dương gồm 7 đảo: Phú Lâm, Lincoln, Đảo Hòn Đá, Đảo Cây, Đảo Bắc, Đảo Trung và Đảo Nam.
Năm 1974, từ Paris Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn nhận định rằng: “Hoàng Sa thất thủ là do sự rạn nứt của khối đại đoàn kết dân tộc. Hoàng Sa là đất của Việt Nam, của nước Việt Nam thống nhất. Khi Việt Nam còn chia đôi thì chúng ta không có tư thế để điều đình đòi lại quần đảo này, mặc dầu theo lịch sử có nhiều bằng chứng cho biết đó là đất của Việt Nam”. Do đó muốn giành lại chủ quyền hải phận và hải đảo tại Biển Đông Hải phải có sự đoàn kết quốc dân trong một quốc gia thống nhất.
Đó là cảm nghĩ của nhà trí thức lý tưởng, tha thiết đến tiền đồ đất nước.
Tuy nhiên, từ 1974 đến nay đã 36 năm, thời gian cho biết nhận định này đã tỏ ra không chính xác.
Vì ngày nay đất nước ta đã thống nhất. Và toàn dân ta, với trên 85 triệu người Việt trong và ngoài nước, đã đồng tâm nhất trí đứng lên đấu tranh đòi lại những hải đảo và hải phận đã mất. Vậy mà, theo chiều hướng hiện tại, càng ngày chúng ta càng mất chủ quyền lãnh thổ tại Biển Đông Hải. Lý do không phải vì đất nước chúng ta bị qua phân, mà vì chúng ta có một chính quyền đi trái lòng dân, không cho người dân đứng lên bảo toàn đất tổ và hành sử quyền yêu nước bằng những cuộc biểu dương lực lượng quy mô và đồng loạt khắp nơi trên thế giới làm chấn động dư luận quốc tế và cảnh tỉnh lương tri nhân loại. Đồng thời gây áp lực buộc kẻ xâm lược phải chùn bước xâm lăng, phải tôn trọng danh dự và chữ ký của họ. Và phải ngồi vào bàn hội nghị để các cơ quan trọng tài hay tài phán quốc tế đưa ra những giải pháp công bằng và hợp lý theo tinh thần và bản văn Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển mà họ đã ký kết tham gia năm 1982. Công Ước này là một văn kiện về chính sử và có hiệu lực chấp hành từ năm 1994.
1. Quy Chế Thềm Lục Địa
Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các quốc gia duyên hải được hưởng quy chế Thềm Lục Địa 200 hải lý (370km) để thăm dò và khai thác dầu khí. Đây là quyền tuyệt đối bất khả xâm phạm (sovereign right). Mọi sự chiếm cứ của ngoại bang dầu có võ trang hay không đều bất hợp pháp, vô giá trị và vô hiệu lực (các Điều 77 và 81).
Về mặt địa lý, tại quần đảo Hoàng Sa, đảo Trí Tôn chỉ cách Quảng Ngãi 135 hải lý, và đảo Hoàng Sa chỉ cách lục địa Việt Nam 160 hải lý. Vì vậy quần đảo Hoàng Sa nằm trong Thềm Lục Địa 200 hải lý của Việt Nam.
Trong khi đó các đảo Hoàng Sa cách Hoa Lục tới 270 hải lý nên không nằm trong Thềm Lục Địa của Trung Hoa.
Về mặt địa chất và địa hình đáy biển các chuyên gia quốc tế như Tiến Sĩ Khoa Học Armand Krempt, Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên cứu, đo đạc và vẽ bản đồ các hải đảo và đáy biển, đã lập phúc trình kết luận rằng: “Về mặt địa chất, các đảo Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam”. (Geologiquement les Paracels font partie du Vietnam). Về địa hình đáy biển Hoàng Sa là một cao nguyên chìm dưới đáy biển nối tiếp lục địa Việt Nam. Độ sâu nhất tại vùng biển Hoàng Sa là 900m. (Trong lịch sử hình thành nước Biển Đông Hải đã rút xuống 4,000m). Ngày nay nếu nước biển rút xuống 900m thì các đảo Hoàng Sa sẽ biến thành một dẫy hành lang chạy thoai thoải từ Trường Sơn qua Cù Lao Ré đến các đảo Trí Tôn, Hoàng Sa và Phú Lâm. (Phúc Trình Krempt về Hoàng Sa lập trong hai năm 1925-1927 được lưu trữ tại Văn Khố Trường Viễn Đông Bác Cổ Paris).
Vì đáy biển Hoàng Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền kéo dài ra ngoài biển nên, Chiếu Điều 76 Luật Biển, Việt Nam có triển vọng được Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc cho mở rộng Thềm Lục Địa Pháp Lý 200 hải lý thành Thềm Lục Địa Địa Chất tới 350 hải lý (650km).
Trong khi đó từ Hoàng Sa về lục địa Trung Hoa có một rãnh biển sâu tới 2,300m. Như vậy về mặt địa chất và địa hình đáy biển Hoàng Sa không phải là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Trung Hoa từ đất liền ra ngoài biển. Trong trường hợp này Trung Hoa không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Địa Chất hay Thềm Lục Địa Mở Rộng.
Tại Trường Sa cũng vậy, độ sâu tại Bãi Thanh Long-Tứ Chính chỉ vào khoảng 400m, và tại đảo Trường Sa và cồn An Bang, độ sâu chỉ tới 200m. Như vậy về mặt địa chất và địa hình đáy biển, cũng như tại Hoàng Sa, các đảo Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra ngoài biển. Theo quan điểm của các Luật Sư Covington và Burling trong Bản Tường Trình tháng 6-1995 gửi Chính Phủ Việt Nam, quần đảo Trường Sa có triển vọng được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng đến 350 hải lý.
Trong khi đó từ Trường Sa về bờ biển Quảng Đông có một rãnh biển sâu tới 4,550m. Như vậy các đảo Trường Sa không phải là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Trung Hoa từ đất liền ra ngoài biển. Và Trung Quốc không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng 350 hải lý. Dầu sao, trong mọi trường hợp, khoảng cách từ Hoa Lục tới Trường Sa là 750 hải lý (hai lần quá tầm 350 hải lý Thềm Lục Địa Mờ Rông nếu có).
Hơn nữa, về mặt địa lý, tại Biển Đông Hải, Bãi Tứ Chính và đảo Trường Sa chỉ cách lục địa Việt Nam từ 150 đến 220 hải lý. Trong khi đó các đảo Trường Sa cách lục địa Trung Hoa từ 550 đến 800 hải lý nên không nằm trong Thềm Lục Địa Trung Hoa.
Bản Tường Trình Chính Phủ Bắc Kinh nạp Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc hồi tháng 5-2009 vừa qua chỉ đề cập đến hải phận chứ không vẽ Thềm Lục Địa Mở Rộng theo các tiêu chuẩn luật định về khoa học và kỹ thuật. Cũng vì vậy Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc sẽ bác bỏ không cứu xét đơn thỉnh nguyện của Bắc Kinh. Để trốn tránh vấn đề và làm lạc hướng dư luận, Trung Quốc chỉ đơn thuần đòi vùng biển phác họa theo hình chữ U mà họ gọi là Lưỡi Rồng Trung Quốc hay Biển Lịch Sử của Trung Hoa.
Biển Lịch Sử Trung Hoa (mà dân gian gọi là Lưỡi Bò) chiếm 80% hải phận Biển Đông Nam Á. Nó nằm sát bờ biển các nước Đông Nam Á, chỉ cách Quảng Ngãi 40 hải lý và cách Phi Luật Tân và Mã Lai 25 hải lý. Như vậy nó tước đoạt 160 hải lý của Thềm Lục Địa Việt Nam, và 175 hải lý của các Thềm Lục Địa Phi Luật Tân và Mã Lai. Biển Lịch Sử Trung Hoa hiển nhiên vi phạm Công Ước về Luật Biển dành độc quyền cho các quốc gia duyên hải như Việt Nam, Phi Luật Tân và Mã Lai được hưởng tối thiểu 200 hải lý Thềm Lục Địa luật định để thăm dò và khai thác dầu khí.
Theo học giả Mark J. Valencia tại Viện Hải Học Đông Tây Hawaii (East-West Institute), yêu sách của Trung Quốc về Biển Lịch Sử không được Luật Pháp và Tòa Án chấp nhận. Ngày nay càng ngày dư luận càng phê phán và chế giễu Lưỡi Rồng Trung Quốc là khôi hài và lố bịch (China’s claim is being increasingly criticized and even ridiculed: China and the South China Sea Disputes, Mark J. Valencia, Oxford University Press. October 1995).
Hồi thế kỷ thứ nhất tây lịch Đế Quốc La Mã đòi chủ quyền lãnh thổ toàn vùng Biển Địa Trung Hải mà họ gọi là “Biển Lịch Sử Của Chúng Tôi!” (Mare Nostrum: Notre Mer/ Our Sea). Địa Trung Hải là vùng biển bao la chạy từ bờ biển Tây Ban Nha qua Pháp, Ý, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ đến các vùng biển Trung Đông và Bắc Phi.
Từ 1955, để phục hồi Chủ Nghĩa Bá Quyền, Mao Trạch Đông lại đưa ra thuyết Biển Lịch Sử đòi chủ quyền lãnh thổ tại vùng biển và các hải đảo Hoàng Sa Trường Sa. Theo ngoa ngôn của Bắc Kinh Lưỡi Rồng Trung Quốc rộng bằng phân nửa lục địa Trung Hoa. Họ cho đó là một vấn đề bất khả tranh nghị.
Về điểm này chúng ta nhắn nhủ nhà cầm quyền Bắc Kinh rằng: Trong thế kỷ này và dưới vòm trời này, không có điều gì, việc gì, hay vấn đề gì là bất khả tranh nghị. Về mặt tinh thần, văn hóa và đạo lý, Trung Quốc không thể nói một đàng làm một nẻo. Họ phải tôn trọng danh dự và chữ ký để công khai đưa ra trước thanh thiên bạch nhật, những tài liệu, lý lẽ và quan điểm cho biết tại sao và vì lý do gì Trung Quốc đòi tước đoạt chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia Đông Nam Á tại các Thềm Lục Địa như đã quy định trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc đã ký kết tham gia với tư cách một trong Ngũ Cường hội viên thường trực Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết? Nếu không đưa ra giải thích hợp lý thì Trung Quốc vẫn chỉ là kẻ sử dụng Luật Rừng Xanh theo chủ trương Cá Lớn Nuốt Cá Bé. Để tước đoạt 4/5 Thềm Lục Địa của Việt Nam (chỉ còn 40 hải lý trong số 200 hải lý), đồng thời tước đoạt 7/8 Thềm Lục Địa của Phi Luật Tân và Mã Lai (chỉ còn 25 hải lý trong số 200 hải lý).
Hơn nữa, như đã trình bầy, chiếu các Điều 77 và 81 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, chủ quyền của các quốc gia duyên hải tại các thềm lục địa có tính tuyệt đối (sovereign right). Bất cứ sự xâm phạm nào của ngoại bang dầu là xâm chiếm võ trang hay không võ trang cũng đều bất hợp pháp, vô giá trị và vô hiệu lực. Cũng như việc Nhật Bản đã chiếm cứ bất hợp pháp các hải đảo và hải phận tại Hoàng Sa và Trường Sa thời Thế Chiến II.
Chắc hẳn Trung Quốc cũng hay biết rằng Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 là một văn kiện pháp lý rút trong chính sử mà trên một trăm quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc phải tôn trọng và thực thi. Trung Quốc không thể tự mình coi mình là một ngoại lệ.
Ngoài Công Ước về Luật Biển 1982, còn có rất nhiều tài liệu lịch sử khác rút ra từ chính sử theo đó chủ quyền của Việt Nam tại các hải phận và hải đảo Hoàng Sa Trường Sa đã được thừa nhận bởi các quốc gia trên thế giới trong đó có Trung Quốc.
2. Trung Quốc đã Khước Từ Chủ Quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa trong Tuyên Cáo Cairo và Nghị Quyết Tehran năm 1943
Trong khi Thế Chiến II còn đang tiếp diễn, năm 1943, ba cường quốc đồng minh đại diện bởi Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt, Thủ Tướng Anh Churchill và Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã hội nghị tại Cairo (Ai Cập), và đã ký Tuyên Cáo Cairo ngày 27-11-1943 trong đó có đoạn như sau:
“Đối tượng của các quốc gia đồng minh là tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả các lãnh thổ và hải đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật đã cưỡng chiếm từ khi khởi sự Thế Chiến I. Tất cả các lãnh thổ và hải đảo mà Nhật Bản đã chiếm đoạt của nhân dân Trung Hoa như Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ phải giao hoàn cho Trung Hoa Dân Quốc”. Điều đáng lưu ý là, tại Hội Nghị Cairo Tổng Thống Tưởng Giới Thạch không đòi Hoàng Sa và Trường Sa. Và như vậy đã khước từ chủ quyền tại hai quần đảo này. (U. N. Treaty Series, American Policy 1950-1955).
Năm 1931, bằng chiến tranh võ trang, Nhật xâm chiếm Mãn Châu để thành lập “Mãn Châu Quốc”. Lúc này theo khuyến cáo của Luật Sư Ngoại Trưởng Henry Stimson, Tổng Thống Hoa Kỳ Herbert Hoover đề ra Chủ Thuyết Stimson theo đó Hoa Kỳ sẽ không thừa nhận các quốc gia hay chính phủ thiết lập do chiến tranh võ trang. Năm 1931, Hoa Kỳ và Anh Quốc đã áp dụng Chủ Thuyết Stimson khi Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu bằng võ lực. Cũng vì vậy trong Tuyên Cáo Cairo 1943 Tổng Thống Roosevelt và Thủ Tướng Churchill tán thành đề nghị của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch về việc Đồng Minh sẽ giao hoàn Mãn Châu cho Trung Quốc khi chiến tranh kết liễu.
Trước đó, trong Chiến Tranh Trung-Nhật 1894-1895, đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ cũng bị Nhật Bản chiếm cứ bằng võ lực nên cũng sẽ phải giao hoàn cho Trung Quốc.
Tại Biển Đông Hải, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng đã bị Nhật Bản chiếm cứ bằng võ lực hồi khởi sự Thế Chiến II. Năm 1939 Nhật Bản đổi tên Hoàng Sa thành Hirala Genho và Trường Sa thành Shinnan Genho. Nếu quả thật hai quần đảo này thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc thì lẽ cố nhiên Tổng Thống Tưởng Giới Thạch cũng đã đề nghị giao hoàn Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc tại Hội Nghị Cairo 1943.
Theo công pháp quốc tế Tuyên Cáo Cairo 1943 là một hiệp ước quốc tế tạo nên những nghĩa vụ quốc tế áp dụng cho các quốc gia liên hệ. Nó có hiệu lực cưỡng hành đối với Trung Quốc, dầu là Trung Hoa Dân Quốc hay Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là quốc gia kế thừa chủ quyền. Đặc biệt là, trong hiện vụ, cả hai phe Quốc Cộng Trung Hoa đều xác nhận như vậy.
Thật vậy, ngày 4-12-1950, Chu Ân Lai, lúc này là ngoại trưởng, tuyên bố tán thành Bản Tuyên Cáo Cairo là văn kiện quốc tế mà Hoa Kỳ, Anh Quốc và Trung Quốc đã ký kết để làm căn bản cho Hòa Ước với Nhật Bản (Hòa Ước San Francisco 1951). Chou En Lai’s Statement on the Peace Treaty with Japan. (People’s China, 12-16-1950)
12 năm sau khi ký, ngày 8-2-1955, trong bản “Duyệt Lại Tình Hình Thế Giới” Tổng Thống Tưởng Giới Thạch cũng xác nhận Tuyên Cáo Cairo và Tuyên Ngôn Potsdam đã phản ảnh chính xác sự thật lịch sử:
“Tôi còn nhớ năm 1943 cố Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt và Thủ Tướng Anh Churchill đã cùng tôi họp Hội Nghị Cairo để thảo luận về những vấn đề liên quan đến việc tiến hành Chiến Tranh Chống Nhật. Trong Bản Tuyên Cáo công bố vào ngày bế mạc Hội Nghị (27-11-1943) chúng tôi loan báo rằng tất cả các lãnh thổ mà Nhật đã chiếm của Trung Quốc, kể cả Đông Bắc Tỉnh (Mãn Châu), Đài Loan và Bành Hồ, phải được giao hoàn cho Trung Quốc. Bản Tuyên Cáo này đã được Tuyên Ngôn Potsdam (ngày 26-7-1945) thừa nhận và được Nhật Bản chấp nhận thi hành khi đầu hàng. Như vậy giá trị Tuyên Cáo Cairo đặt căn bản trên những thỏa thuận không ai có thể dị nghị được”. (Review of International Situation, China Publishing Co, Taipei, p.p 22-23, 1956)
Tuyên Cáo Cairo ngày 27-11-1943 cũng đã được Liên Sô tán thành tại Hội Nghị Tehran ngày 30-11-1943 giữa Tổng Thống Roosevelt, Thủ Tướng Churchill và Chủ Tịch Stalin. Trong phiên Hội Nghị này Stalin cho biết ông đã đọc Tuyên Cáo Cairo với đầy đủ nội dung của nó. Ông cũng nhìn nhận rằng việc giao hoàn Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ cho Trung Quốc là hợp lý. (The Conferences at Cairo and Tehran 1943, The Foreign Relations of the United States, Washington D.C, 1961)
3. Đồng Minh Không Thừa Nhận Chủ Quyền của Trung Quốc tại Biển Đông Hải trong Tuyên Ngôn Potsdam 1945.
Tháng 5-1945 Đức Quốc Xã đầu hàng Đồng Minh. Hai tháng sau Tam Cường Mỹ, Anh và Liên Sô họp Hội Nghị Potsdam (Đức) để thảo luận về tương lai chính trị, đặc biệt về vấn đề tổ chức tuyển cử tại các nước Đông Âu và Trung Âu. Tuyên Ngôn Potsdam ngày 26-7-1945 còn ấn định thể thức giải giới quân đội Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh tại Thái Bình Dương. Để tước khí giới quân đội Nhật, Đồng Minh quyết định chia Việt Nam thành 2 khu vực giải giới theo Vĩ Tuyến 16 Bắc: Quân đội Trung Hoa có nghĩa vụ giải giới và hồi hương quân đội Nhật tại phía Bắc Vĩ Tuyến 16. Và quân đội Anh được ủy nhiệm giải giới và hồi hương quân đội Nhật từ Vĩ Tuyến 16 vào Nam. (Japan Subdued: The End of The War in the Pacific, Princeton Press University, 1961).
Theo Tuyên Ngôn Potsdam, Trung Quốc chỉ có nghĩa vụ giải giới quân đội Nhật từ Vĩ Tuyến 16 ra Bắc kể cả tại quần đảo Hoàng Sa tọa lạc tại Vĩ Tuyến 16 (Nhóm Lưỡi Liềm tại vỹ tuyến 16.20 và Nhóm An Vĩnh tại vỹ tuyến 16.50). Trong khi đó quân đội Anh Quốc có nghĩa vụ giải giới quân đội Nhật từ Vĩ Tuyến 16 vào Nam, kể cả tại quần đảo Trường Sa tọa lạc tại các Vĩ Tuyến từ 12 đến 7 (từ Cam Ranh xuống Nam Cà Mâu).
Giải giới quân nhân không phải là tiếp thu hay chiếm hữu lãnh thổ. Do đó nếu Anh Quốc không có chủ quyền lãnh thổ tại Trường Sa, thì Trung Quốc cũng không có chủ quyền lãnh thổ tại Hoàng Sa. Và dĩ nhiên, Trung Quốc cũng không có chủ quyền lãnh thổ tại Trường Sa.
Tại phía Bắc Vĩ Tuyến 16, về việc giải giới quân đội Nhật, ngày 28-2-1946 Trung Quốc đã ký với Pháp Hiệp Ước Trùng Khánh theo đó Pháp “khước từ trị-ngoại pháp-quyền và các quyền liên hệ khác tại Trung Hoa” (chủ yếu là Pháp trả Trung Quốc các tô giới tại Thượng Hải và Quảng Châu Loan). Để bù lại Trung Quốc đồng ý để quân đội Pháp đổ bộ lên Bắc Việt thay thế quân đội Trung Hoa tước khí giới các binh sĩ Nhật tại phía Bắc Vĩ Tuyến 16. (Jean R. Sainteny: Histoire D’une Paix Manquée, Indochine 1945-1947).
Một tuần sau Hiệp Ước Trùng Khánh, Chính Phủ Pháp ký với Chính Phủ Hà Nội Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny ngày 6-3-1946, theo đó Pháp thừa nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Về mặt quân sự, 15 ngàn quân Pháp được trú đóng tại Việt Nam trong thời hạn 5 năm. Chính Phủ Hà Nội cam kết sẽ tiếp đón quân đội Pháp theo tinh thần hợp tác quốc tế khi quân đội này kéo vào Bắc Việt để thay thế quân đội Trung Hoa giải giới quân đội Nhật.
Việc này cho biết, khác với Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ, Đồng Minh xác nhận Hoàng Sa Trường Sa không thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Vì tại Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ, Trung Quốc có quyền tiếp thu và tự mình đứng ra giải giới quân đội Nhật Bản mà không phải nhờ đến các quốc gia đồng minh Anh Pháp.
4. Hòa Ước San Francisco 1951 Thừa Nhận Chủ Quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Mùa Xuân 1945, 51 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc. 6 năm sau, năm 1951, 51 quốc gia đồng minh lại họp Hội Nghị để ký Hòa Ước Cựu Kim Sơn ngày 8-9-1951. Mục đích để chấm dứt tình trạng chiến tranh, phục hồi và tái thiết Nhật Bản nhằm xây dựng hòa bình thế giới trong tinh thần hòa giải, hợp tác và hữu nghị theo tôn chỉ của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, và phỏng theo Kế Hoạch Marshall được thi hành từ 1947 để tái thiết Âu Châu.
Lúc này Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã cướp chính quyền bằng võ trang tại Hoa Lục, và Chính Phủ Trung Hoa Dân Quốc đã di tản sang Đài Loan. Trong điều kiện chính trị này các Quốc Gia Đồng Minh Tây Phương không thừa nhận Chính Phủ Bắc Kinh chiếu Chủ Thuyết Stimson được áp dụng trong vụ Mãn Châu năm 1931. Do đó cả hai Chính Phủ Quốc-Cộng Trung Hoa đều không được mời tham dự Hội Nghị Hòa Bình San Francisco 1951.
Trước đó, ngày 8-3-1949, Pháp ký với Việt Nam Hiệp Định Elysee để trả độc lập cho Quốc Gia Việt Nam. Tháng 4-1949, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ thuộc địa để sát nhập Nam Phần vào Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất. Từ đó Việt Nam có tư cách tự bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Với tư cách này, Việt Nam được mời tham dự Hội Nghi San Francisco 1951.
Ngày 12-7-1951 các Cường Quốc Anh Mỹ tổ chức Hội Nghị đã phổ biến bản Dự Thảo Hòa Ước. Điều 2 về Lãnh Thổ (Territory) đề cập đến 4 vấn đề chủ yếu sau đây:
(a) Nhật Bản nhìn nhận nền độc lập của Triều Tiên. [sau khi thắng Nga
năm 1905, Nhật thiết lập chế độ thuộc địa tại Triều Tiên].
(b) Nhật Bản khước từ chủ quyền tại các đảo Kurile và Sakhalin [để giao hoàn cho Liên Sô. Trước Chiến Tranh Nhật-Nga năm 1905 các đảo này thuộc chủ quyền của Vương Quốc Nga].
(c) Nhật Bản khước từ chủ quyền tại đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ [để giao hoàn cho Trung Quốc. Những đảo này Nhật Bản đã chiếm của Trung Quốc trong Chiến Tranh Trung-Nhật 1895].
(d) Nhật Bản khước từ chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [để giao hoàn cho Việt Nam].
Đây là một quyết định hợp lý. Vì nếu Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc [cũng như Đài Loan và Bành Hồ] thì Điều 2 Hòa Ước San Francisco không cần phải chia thành hai đề mục riêng biệt (c) và (d), mà chỉ cần ghi “để giao hoàn cho Trung Quốc Đài Loan, Bành Hồ, Hoàng Sa và Trường Sa”.
Khi Nhật Bản tuyên bố từ bỏ mọi quyền về Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội Nghị Hòa Bình San Francisco 1951, các quốc gia tham dự Hội Nghị đã phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc, và mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Việt Nam tại 2 quần đảo này. Thật vậy:
Ngày 5-9-1951, trong phiên Khoáng Đại Hội Nghị thứ 5, Ngoại Trưởng Liên Sô Andrei Gromyko đệ trình tu chính án yêu cầu Hội Nghị trao Đài Loan, Bành Hồ, Trường Sa và Hoàng Sa (Nam Sa và Tây Sa) cho Trung Quốc. Tu chính án này đã bị Hội Nghị bác bỏ với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và 1 phiếu trắng (Tỷ lệ chống đối là 94%).
Ngày 7-9-1951, trong phiên Khoáng Đại Hội Nghị thứ 7, Thủ Tướng Trần Văn Hữu, Trưởng Phái Đoàn Quốc Gia Việt Nam lên diễn đàn công bố chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa và không gặp sự phản kháng nào của các quốc gia tham dự Hội Nghị.
Qua hôm sau, ngày 8-9-1951 các quốc gia tham dự Hội Nghị San Francisco chấp thuận toàn bộ Bản Dự Thảo Hòa Ước ngày 12-7-1951 đặc biệt là Điều 2 quy định việc giao hoàn các hải đảo tại Thái Bình Dương cho Liên Sô, Trung Quốc và Việt Nam.
Về mặt pháp lý và với sự công bố chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trước 51 quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc tham dự Hội Nghị San Francisco 1951, chúng ta khẳng định rằng: Từ 1951 các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được các quốc gia trên thế giới thừa nhận thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, chứ không thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Việc đại đa số các Quốc Gia Đồng Minh thừa nhận chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa Trường Sa có giá trị tuyệt đối (erga omnus: full force and credit), kể cả đối với những quốc gia không tham dự Hội Nghị như Trung Quốc và Đài Loan. (Conference for the Conclusion and Signature of the Peace Treaty with Japan, U. N. Treaty Series, Volume 136, p. 46).
Ba năm sau Hội Nghị Geneva 1954 đã minh thị xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
5. Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 Minh Thị Xác Nhận các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Chủ Quyền Lãnh Thổ của Việt Nam
Tháng 7-1954, để giải quyết Chiến Tranh Đông Dương, Hội Nghị Geneva được triệu tập với sự tham dự của 9 quốc gia gồm Ngũ Cường Mỹ, Anh, Pháp, Liên Sô và Trung Quốc, cùng Ai Lao, Cao Miên và 2 nước Việt Nam là Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc). Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 một lần nữa, đã minh thị xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa (lúc này là Quốc Gia Việt Nam) tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thật vậy:
a). Theo Điều 4 Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 “giới tuyến giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam (Vĩ Tuyến 17) kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển.
“Lực lượng Liên Hiệp Pháp (gồm có Quốc Gia Việt Nam, Pháp và đồng minh) phải rút khỏi tất cả các hải đảo tại phía Bắc giới tuyến (Vĩ Tuyến 17).
“Quân đội Nhân Dân Việt Nam (Bắc Việt) phải rút khỏi tất cả các hải đảo về phía Nam giới tuyến” (Vĩ Tuyến 17). Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tọa lạc về phía Nam từ vỹ tuyến 17 đến vỹ tuyến 7 (Quảng Trị-Nam Cà Mâu). Do đó
chiếu Hiệp Định Geneva 1954, quân đội Bắc Việt phải triệt thoái ra khỏi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tọa lạc về phía nam Vĩ Tuyến 17 (Quảng Trị-Nam Cà Mâu). Và, lẽ tất nhiên, tất cả các quân đội ngoại quốc khác (kể cả Trung Quốc và nhất là Trung Quốc) phải tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Quốc Gia Việt Nam và không được chiếm cứ hay đồn trú tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. (Kể từ 1955 Quốc Gia Việt Nam lấy quốc hiệu là Việt Nam Cộng Hòa).
Vì Bắc Việt không có chủ quyền lãnh thổ từ Vĩ Tuyến 17 trở vào Nam nên Chính Phủ Hà Nội không có tư cách sở hữu chủ để chuyển nhượng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho bất cứ quốc gia đệ tam nào, kể cả Trung Quốc và nhất là Trung Quốc. Kết quả là Công Hàm Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai ngày 14-9-1958 không có giá trị và hiệu lực pháp lý.
b). Hơn nữa Điều 24 Hiệp Định Geneva 1954 còn buộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa: “Hiệp định này áp dụng cho tất cả các lực lượng vũ trang của đôi bên. Lực lượng vũ trang của mỗi bên sẽ phải tôn trọng lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của bên kia và không có hành động nào chống phá hay phong tỏa (bên kia), danh từ lãnh thổ bao gồm cả hải phận và không phận”.
c). Ngoài ra Điều 12 Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng của Hội Nghị Geneva ngày 21-7-1954 cũng khẳng định: “Các quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva (trong đó có Trung Quốc) cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”. (Trung Quốc là một trong 9 quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva 1954 với Anh Quốc và Liên Sô là đồng chủ tịch). (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Vì Độc Lập Hòa Bình: Đông Dương 1945-1973, Saigon, 1973 do Đại Nam tái bản tại California).
d). Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (1998) cũng khuyến cáo các quốc gia hội viên tránh mọi vi phạm tập thể, thô bạo và có hệ thống bắt nguốn từ sự kỳ thị chủng tộc, đô hộ hay chiếm đóng, gây hấn hay đe dọa chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ bằng cách phủ nhận quyền dân tộc tự quyết và quyền của các dân tộc được hành sử đầy đủ chủ quyền đối với các tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước”.
Căn cứ vào những tài liệu lịch sử quốc tế nói trên, Trung Quốc đã ý thức được sự yếu kém của họ về cả ba mặt pháp lý, địa lý và lịch sử. Do đó Trung Quốc không bao giờ dám công khai thảo luận về vấn đề tranh chấp chủ quyền các hải đảo và hải phận tại Biển Đông Hải. Họ thường nói đó là một vấn đề bất khả tranh nghị. Lý do đơn giản là vì họ không có tài liệu hay lý lẽ gì để đưa ra tranh nghị công khai.
Tất cả lý sự và lập trường của Trung Quốc chỉ thu gọn trong câu: “Biển Nam Hoa là Biển Lịch Sử của Trung Quốc”. Cũng như cách đây 2000 năm, trong thế kỷ thứ nhất, Đế Quốc La Mã cũng đã từng tuyên bố “Địa Trung Hải là Biển Lịch Sử của Chúng Tôi”. Theo các luật gia và chuyên viên hải học, thuyết biển lịch sử đã lỗi thời từ hàng ngàn năm nay.
Chiếu Điều 8 Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển:
“Tòa Án Quốc Tế chỉ quan niệm Biển Lịch Sử là Nội Hải nghĩa là vùng biển tọa lạc bên trong đất liền, về phía bên trong đường cơ sở của Biển Lãnh Thổ. Ngoại trừ trường hợp các quốc gia quần đảo (như Phi Luật Tân hay Nhật Bản) Biển Lịch Sử hay nội hải của một quốc gia nằm bên trong đất liền hay về phía bên trong đường cơ sở của biển lãnh thổ”. (The International Court of Justice has defined historic waters as “internal water” (Fisherys cases UK vs. Norway, 1951, I. C. J. 116, 130); “Waters on the landward side of the baseline of the territorial sea form part of the internal water of the State” (Art. 8 LOS Convention 1982).
Trong khi đó Biển Đông Hải hay Biển Nam Hoa là ngoại hải rộng tới 2000 cây số từ lục địa Trung Hoa đến bờ biển Nam Dương.
Nói tóm lại :
A. Theo chính sử Trung Quốc “suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết đến đại dương”. Trong các thế kỷ thứ 3 và thứ 2 Trước Công Nguyên, thản hoặc cũng có những đoàn thám hiểm đại dương đến Nhật Bản hay Đông Trung Quốc Hải. Mục đích để đi kiếm những dược phẩm có tác dụng đem lại trường sinh bất tử cho nhà vua (Tần Thủy Hoàng). Và trong thế kỷ 15 cũng có những đoàn thám hiểm đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập bang giao với nhiều quốc gia duyên hải, đồng thời khai triển Con Đường Tơ Lụa tại Nam Á, Trung Đông và La Mã. Những chuyến du hành của phái bộ Trịnh Hòa không phải để chinh phục vùng biển Nam Hoa nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà chỉ nhằm thám hiểm Ấn Độ Dương. Trạm trú chân duy nhất của phái bộ Trịnh Hòa là Đồ Bàn hay Trà Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành. Sau khi Minh Thành Tổ mất, dư luận triều đình nhà Minh đã phê phán những cuộc hải trình nặng phần trình diễn của Trịnh Hòa là đã làm suy yếu nền kinh tế quốc gia.
“Throughout most of their long history of cultural and scientific development, the Chinese people have been but passively interested in the ocean. Historical records indicate that from time to time the Chinese authorities sent out maritime exploring expeditions, notably those to Japan as early as the second and third centuries B.C., and to Southeast Asia, India, and Africa during the fifteenth century. Apparently there have been few, if any, planned deep penetrations of the Pacific Ocean by the Chinese during their long history. But Chinese traders did follow the land and water trade routes to India and beyond to Africa and the Middle East, prior to the Renaissance. Chiao-Min Hsieh. Chinese History Middle Ages: China Academy, Taipei, 1978, p. 287.
“During a period of twenty-eight years, from 1405 to 1433 Admiral Cheng Ho led seven exploring expeditions into the Pacific and Indian Oceans and visited more than thirty-seven countries. The large exploring expeditions that were to cross the South China Sea and explore the Indian Ocean were criticized by the court as poor to (an impoverishment of) the country. Chiao-Min Hsieh, Ibid, p. 290-291.
“The Chinese expeditions were diplomatic not commercial, much less piratical or colonizing ventures. John King Fairbank, China, A New History: Harvard University Press, p. 138”
B. Hoàng Sa Trường Sa tọa lạc tại Thềm Lục Địa Việt Nam nên không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Hoa.
C. Thuyết Biển Lịch Sử của Trung Hoa tại Biển Đông Nam Á đã bị tòa án quốc tế và luật pháp quốc tế phủ nhận. Trước dư luận quốc tế nó càng ngày càng trở nên khôi hài và lố bịch.
D. Tín Nghĩa và Quyền Mưu
Muốn hội nhập vào cộng đồng nhân loại văn minh, thay vì tổ chức các thế vận hội về thể dục thể thao cũng như các hội chợ thế giới về văn hóa kỹ thuật, Bắc Kinh nên trở về với tín nghĩa, pháp lý và đạo lý. Bằng cách tôn trọng danh dự và chữ ký của họ để nghiêm chỉnh thực thi Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển mà họ đã ký kết tham gia từ 28 năm nay. Nếu đi ngược lại trào lưu tiến hóa của nhân loại văn minh trọng pháp, Trung Quốc sẽ bị các quốc gia trên thế giới chê cười và tẩy chay do thái độ tiền hậu bất nhất, nói một đàng làm một nẻo.
Theo các nhà minh triết cổ kim có hai con đường lập quốc:
Lấy tín nghĩa và đạo lý mà lập quốc là theo chính đạo.
Lấy mưu mô quỷ quyệt mà trị nước là theo tà đạo. Con đường này sẽ đưa đất nước đến suy vong.
(Tín nghĩa lập nhi nhân đạo, quyền mưu lập nhi vong quốc).
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
Thuyết Trình tại California ngày 25-4-2010
Đồng thời phổ biến tập biên khảo “Đông Hải với Hoàng Sa Trường Sa theo Chính Sử, Ngoại Sử và Văn Học Sử Trung Quốc”
No comments:
Post a Comment