Tuesday, March 27, 2012

Những âm mưu thôn tính Việt Nam của Tàu cộng



Nước Việt Nam ta đã bị Tàu đô hộ trong 5 giai đoạn, tính tổng cộng gần một ngàn năm. Cho tới thời gian cận đại vào đầu thập niên 1930, một lần nữa, Tàu lại âm mưu thôn tính Việt Nam qua một nhân vật với tên gọi Hồ Chí Minh, đóng vai trò của Nguyễn Tất Thành.  Theo sách “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản” của cụ Hoàng Văn Chí, trang 79 có viết như sau: “Báo Daily worker, cơ quan của Đảng Cộng Sản Anh, đăng một tin vắn tắt, nói ông Hồ đã chết vì bệnh lao trong khám đường Hồng Kông nên cả mật thám Pháp lẫn CSVN đều tin là thực. Năm 1933, mật thám Pháp ghi vào hồ sơ Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Tất Thành) là đã chết ở Hồng Kông.”  Thời đó, chẳng một ai có thể thoát chết khỏi bệnh ho lao vì chưa có tìm ra thuốc trụ sinh Streptomycine để diệt vi trùng Koch, Nguyễn Tất Thành đã chết vì bệnh lao trong khám đường Hồng Kông là một sự thật không thể chối cãi. (xin tham khảo http://mylinhng.multiply.com/journal/item/1572)

Sau đây là những âm mưu thâm độc của Tàu trên con đường thôn tính nước Việt Nam: (Thôn tính ở đây không có nghĩa là đem quân sang xâm chiếm, rồi bắt người Việt Nam làm nô lệ như thời xưa. Thôn tính ở đây được xem như chính sách thực dân mới, như tằm ăn dâu, từ từ chiếm đất chiếm biển, thuần phục Nhà cầm quyền Việt Nam, xóa mất chủ quyền, Việt Nam trở thành một khu tự trị và trong lâu dài sẽ trở thành một tỉnh bang của Tàu Cộng.)

1) Một trong những âm mưu thôn tính Việt Nam là việc HCM lấy lá cờ đỏ sao vàng của tỉnh Phúc Kiến (xin tham khảo http://mylinhng.multiply.com/journal/item/1571)  làm lá cờ nước, khi cướp chính quyền vào 1945.  Lẽ dĩ nhiên, HCM làm việc trực tiếp dưới quyền của Mao Trạch Đông, và sau này là Chu Ân Lai.  Lá cờ nước là biểu tượng thiêng liêng của một dân tộc, phải do chính người dân mình tự vẽ ra, người vẽ ra lá cờ phải có tên tuổi là việc đương nhiên, nhưng đến giờ phút này chúng ta chẳng biết ai đã vẽ ra, tất cả chỉ là những nghi vấn. Nó không giống như 2 bài quốc ca “Tiếng Gọi Thanh Niên” và “Tiến Quân Ca” đều có tác giả là Lưu Hữu Phước và Văn Cao.  Vào tháng 10 năm 1949, tức 4 năm sau đó, Tàu đưa ra cũng lá cờ đỏ với 1 sao lớn, tượng trưng cho một nước Đại Hán, và 4 sao nhỏ, tượng trưng như những chư hầu, gọi là khu tự trị như Việt Nam, Bắc Hàn, Lào, và Campuchia.  Có người cho rằng 4 ngôi sao nhỏ tượng trưng cho 4 sắc dân Hồi, Mông, Tạng, Mãn, điều này có lẽ không đúng, vì mang tính chất người Hán kỳ thị các sắc dân khác trong cùng một nước.

2) Tàu âm mưu chia 2 lãnh thổ Việt Nam qua bàn tay của HCM.  Chúng ta có thể khẳng định, không một người Việt Nam yêu nước nào muốn lãnh thổ của mình bị chia ra làm 2 ở dòng sông Bến Hải. Bác sỹ Trần Văn Đỗ, người đại diện cho chính quyền miền Nam thời đó đã bật khóc và không ký tên vào Hiệp Định Geneve vào ngày 21 tháng 7 năm 1954.  Sang ngày hôm sau, thủ tướng Ngô Đình Diệm đã ra lệnh cho treo cờ rủ toàn miền Nam để phản đối việc chia 2 đất nước.  Chính Mao Trạch Đông cử Chu Ân Lai làm trưởng phái đoàn Tàu đàm phán với Pháp đầu tiên để chia 2 lãnh thổ Việt Nam và mời gọi Anh, Hoa Kỳ, Liên Bang Xô Viết, Lào, Campuchia, cùng giải quyết vấn đề Đông Dương.  Đơn giản chúng ta kết luận, Tàu chia cắt đất nước VN làm hai, để Nam và Bắc chiến tranh đổ máu. Hàng triệu dân Việt phải chết, đất nước Việt Nam yếu đi, để dễ dàng Tàu thôn tính sau này.  Nếu HCM là người Việt Nam, sẽ không bao giờ, và không bao giờ chấp nhận việc chia 2 đất nước, hay nói thẳng là bán nước.  Làm sao có thể thi hành một Hiệp Định mà một bên không ký tên vào Hiệp Định ???

3) HCM khởi động cuộc Cải Cách Ruộng Đất từ 1953 – 1956, và Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm  với chủ trương “Trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ”, mục đích nhằm tiêu diệt tất cả những thành phần ưu tú của nước Việt Nam.  Những ai trí thức tài giỏi đều bị giết.  Thời đó, bất cứ ai, chỉ cần đeo mắt kiếng cận là đủ quy vào thành phần trí thức.  Càng học cao, học giỏi, càng dễ bị tiêu diệt.  Mao Trạch Đông từng nói, “trí thức không bằng cục phân” mà. 

4) Sau khi HCM ký Hiệp Định Sơ Bộ Pháp-Việt vào năm 1946, HCM rảnh tay, ra chỉ thị cho Võ Nguyên Giáp, lúc đó làm Bộ Trưởng Nội Vụ, tiêu diệt tất cả các đảng phái chống Pháp như Đảng Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng…  Đây là âm mưu của Tàu nhằm tiêu diệt toàn bộ tất cả các đảng phái quốc gia yêu nước, làm phân hóa nội bộ nước Việt Nam. 

5) Tôn sùng cá nhân HCM và Mao Trạch Đông cũng là âm mưu thôn tính Việt Nam bằng chính sách thực dân mới.  Trước năm 1975 và sau này, có bao giờ CSVN có nói đến “tư tưởng HCM” đâu, tự nhiên cách đây vài năm, khi không còn bám víu vào hình ảnh của Karl Marx – Lênin nữa, CSVN đã đem ra cái gọi là “tư tưởng HCM” để bịp dân.  Trong khi đó, HCM đã từng tuyên bố rằng: “Tôi có thể sai, chứ đồng chí Stalin (Xít Ta Lin) và đồng chí Mao không bao giờ sai”.  Việc tôn sùng cá nhân đã đi ngược lại sự tiến hóa của trào lưu thế giới.  Đã con người là con người, chẳng ai là thần thánh mà không bị sai lầm, bị cám dỗ, và bị vấp ngã.  Việc đưa ”tư tưởng HCM” vào học đường là một tội ác rất lớn của CSVN.  Đây là sự lừa gạt trắng trợn những trẻ nít khi chưa đến tuổi trưởng thành, chưa biết suy nghĩ để phân biệt đúng sai, nên trở thành sự “nhồi sọ”, tội ác này đáng bị khinh bỉ và bị lên án triệt để. 

HCM từng chỉ thị cho nhà thơ Tố Hữu sáng tác những bài thơ ca ngợi Mao Trạch Đông và cho đem vào học đường, trong đó có bài thơ rất thô bỉ:

Giết, giết nữa, bàn tay không chút nghỉ
Cho ruộng đồng, lúa tốt thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu, rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt.

Tại sao, lịch sử Việt Nam ta, có biết bao nhiêu tiền nhân dựng nước và cứu nước như các đời Vua Hùng Vương, hay Hai bài Trưng, Đức Trần Hưng Đạo, vua Lê Lợi, vua Quang Trung không được ghi ơn công đức, mà lại phải thờ một tên bá vơ và tội ác Mao Trạch Đông từ bên Tàu.  Qúy vị hãy nhìn đồng tiền Việt Nam hiện tại xem, sau 3 lần đổi tiền, vẫn một gương mặt tên Tàu HCM, chẳng một tiền nhân nào được quyền in trên tờ giấy bạc.  Qúy vị hãy nhìn xem bản Hiến Pháp 1992 hiện tại cũng thế.  Lời Mở Đầu của bản Hiến Pháp này chỉ nói duy nhất về việc thành lập ĐCSVN vào 1930, coi như đất nước này mới được thành lập từ 1930.  Đúng như tên đại sứ CSVN tại Hoa Kỳ là Lê Công Phụng, đã từng lên tiếng, đại khái như: ”Nước Việt Nam chúng tôi được thành lập chỉ vài chục năm, so sánh với nước Mỹ đã trên 200 năm, nên vẫn còn nhiều điều bất cập”.  Thành ra, đây cũng là một âm mưu muốn xóa bỏ hết công đức của tiên nhân dựng và giữ nước Việt Nam, làm liệt kháng tinh thần chiến đấu của người dân Việt Nam. 

Ở đây, xin nhắc sơ về kẻ kế vị quyền hành của HCM, ông Lê Duẩn, làm tổng bí thư từ 1960 đến 1976, nên rất thân cận với HCM. Lẽ dĩ nhiên điều bí mật HCM là người Tàu thay thế Nguyễn Ái Quốc, Lê Duẩn biết rất rõ.  Chính vì điều này, dòng máu Việt Nam của Lê Duẩn không cho phép ông phải nghe theo lời một tên Tàu phù.  Tất cả việc nước lúc đó Lê Duẩn hoàn toàn nắm quyền, HCM chỉ là một tên bù nhìn, bị khống chế.  Từ đó, đã xảy ra những xung đột ngấm ngầm giữa Tàu cộng và Việt Cộng, cho đến ngày cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa xảy ra vào tháng 4 năm 1975.  Khi đại tướng Dương Văn Minh thay thế tổng thống Trần Văn Hương, đại sứ Pháp lúc đó là Jean Marie Mérillon đã đứng ra làm trung gian với Dương Văn Minh để thành lập một miền nam trung lập trong bài viết của ông.  Đại sứ Mérillon cho rằng Mao rất ghét Lê Duẩn. lúc đó Chu Ân Lai là ngưới thừa kế của Mao, đã đưa ra yêu sách với Mérillon để cứu Việt Nam Cộng Hòa.  Ngay cả Tàu cộng sẽ tiếp tế vũ khí nếu cộng sản Hà Nội lúc đó không đồng ý cho một giải pháp trung lập.  Với những xung đột này, Lê Duẩn hoàn toàn chạy theo Liên Xô.  Từ đó, Hà Nội  “thi hành nghĩa vụ quốc tế”, nói thẳng là làm tay sai, hay đánh thuê cho Liên Xô, để năm 1977, tiến chiếm Campuchia, quốc gia đàn em của Tàu Cộng. Tàu Cộng đâu để Hà Nội bung xung muốn làm gì thì làm, Đặng Tiểu Bình cầm quyền lúc đó, cứ cảnh cáo đòi dạy cho Hà Nội một bài học.  Và rồi, Tàu ký hiệp ước bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 1978. Khi Hà Nội xâm lăng Campuchia, điều này như giọt nước đã làm tràn ly, năm 1979, Tàu kéo quân sang xâm chiếm các tỉnh miền Bắc với một cuộc chiến đẫm máu, rồi rút quân gần 2 tháng sau đó, trước khi tuyên bố “hoàn thành mục tiêu”.  Cuộc chiến tranh Việt Trung không phải chấm dứt mà cứ âm ỉ kéo dài.  Đến lúc Liên Xô tan rã vào năm 1989, Hà Nội đã không còn chỗ dựa, nên hoàn toàn quay sang nịnh hót Tàu Cộng để mong được cầm quyền cho đến nay.

Ngoài 5 điều đưa ra ở trên, tất cả chúng ta hiện thấy rõ, Việt Nam đã mất chủ quyền hoàn toàn.  Gần như tất cả việc lớn nhỏ của đất nước gì cũng phải hội ý cùng Tàu Cộng.  Trước khi vào WTO, Việt Nam phải ký kết Hiệp Ước Thương Mại với Hoa Kỳ.  Vào năm 1999, Bill Clinton đồng ý ký với thủ tướng VC Phan Văn Khải khi tham dự hội nghị quốc tế tại Holland, nhưng tiếc thay, Phan Văn Khải đã không dám ký kết, vì làm thế là qua mặt đàn anh Tàu Cộng.  Nếu Khải chịu ký kết HƯTM với Hoa Kỳ, chỉ một năm sau, Việt Nam có thể đã vào WTO, tức là vào năm 2000 trước khi Tàu Cộng vào WTO.  Thế rồi, Tàu Cộng ký HƯTM với Hoa Kỳ trước và vào 11 tháng 12 năm 2001, làm thành viên thứ 142 của WTO.  Rốt cuộc, Việt Nam lót tót chính thức làm thành viên thứ 150 của WTO vào ngày 11 tháng 1 năm 2007. Coi như Tàu Cộng tung hoành buôn bán mối mai ăn ốc trong suốt 6 năm, Việt Nam vào sau phải lo lượm vỏ ốc, chớ cơm cháo gì được.  Mới đây thôi, Việt Nam cũng không dám dự lễ Trao Giải Thường Hòa Bình Nobel cho nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc Lưu Hiểu Ba, khi đàn anh Tàu Cộng qúa phẫn nộ về việc trao giải này.  Một vấn đề rất trở ngại, Tàu Cộng vào nước Việt Nam không cần phải có chiếu khán (Visa) nhập cảnh.  Điều này, làm Việt Nam không thể kiểm soát được số người Tàu đang hiện diện tại Việt Nam.  Tết năm Canh Dần vừa qua, ngay đầu xuân, ngày mùng một Tết một số đài truyền hình Việt Nam đã cho trình diễn bài hát có nội dung như sau: “Việt Nam Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông, chung một biển đông mối tình hữu nghị sáng như rạng đông. Bên sông đấp cùng một giòng, tôi nhìn sang đấy, anh nhìn sang đây, dân sống chung nghe tiếng gà gáy cùng. Chung một ý, chung một lòng, đường ta đi hồng màu cờ thắng lợi. Nhân dân ta ca muôn năm Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông.”  Nội dung bài hát này rất nhục nhã cho Việt Nam vì phải cùng chung một ý, chung một lòng với đàn anh Tàu Cộng.  Người dân chỉ cần treo biểu ngữ, hay bận áo có hàng chữ “Hoàng Sa và Trường Sa của VN” cũng bị bắt và trù giập.  Nhà cầm quyền chẳng khác gì một bọn thái thú Tàu, ngăn cản lòng yêu nước của người dân, nói chi biểu tình đòi HS và TS của VN, coi như bị cấm hoàn toàn.  Vụ tổ chức Đại Lễ 1000 Năm Thăng Long vừa rồi cũng bị người dân đàm tiếu, ăn mừng ngày Quốc Khánh 1 tháng 10 của Tàu Cộng, còn cuộn phim “Lý Công Uẩn, Đường Về Thăng Long” bị toàn dân phản đối kịch liệt đến nổi Nhà cầm quyền ra quyết định đình chỉ việc chiếu phim, vì rất nhục quốc thể, khi tất cả đều mang hình ảnh của một ông vua Tàu.  Đa số những người đóng phim đều là Tàu, cảnh Tàu, ngay cả đạo diễn phim cũng là người Tàu.  Điều vô lý nhất là rất nhiều tỉnh đã cho Tàu Cộng mướn rừng trên 300 ngàn mẩu rừng thời hạn 50 năm với gía rẻ mạt.  Đây đâu phải chuyện chơi, tỉnh nào muốn cho thuê rừng là thuê, chẳng ai chịu trách nhiệm, vấn đề an ninh của một quốc gia đâu phải đùa. Tàu nó đặt công sự chiến đấu trong đó, đợi ngày thôn tính Việt Nam, chỉ một cái rụp mà thôi.  Khai thác Bauxite tại Tây Nguyên cũng có thể là một đại nạn cho nền an ninh quốc gia.  Khi xưa cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng nói với sứ thần chúa Nguyễn Hoàng, “Hoành Sơn Nhất Đái, Vạn Đại Dung Thân”. Ý nói, ở nơi rừng núi Trường Sơn miền trung đó có thể làm nơi ẩn náu hàng ngàn năm.  Vì vị trí của nó ở cao, có nhiều hốc núi hiểm trở, bom và đại pháo chẳng làm được gì.  Bây giờ, hàng chục ngàn công nhân Tàu cộng ngay phần yết hầu đó chính là đã xâm phạm vào nền an ninh quốc gia của Việt Nam.  Điều đau thương và nhục nhã nhất cho lịch sử, vào 22 tháng 3 năm 2010, Nhà cầm quyền CSVN đã cử một phái đoàn qua Đông Hưng bên Tàu để tham dự lễ bái lạy tên Mã Viện, một thời xâm chiếm Việt Nam và đánh bại Hai Bà Trưng.  Hiện nay, tất cả những hàng hóa của Tàu, bị các quốc gia Tây Phương và Hoa Kỳ trả lại vì những sự độc hại của nó, Tàu đem qua bán lại cho Việt Nam, hàng hóa Tàu tràn ngập Việt Nam.  Ngay cả, có một số đường phố mang tên Tàu luôn, ở những nơi có nhiều người Tàu cư ngụ.  Trong suốt 5 năm qua, kể từ Tàu Cộng giết 9 ngư dân Việt Nam vào 8 tháng 1 năm 2005 cho đến bây giờ, Tàu Cộng vẫn liên tục tấn công ngư dân Việt Nam, bắt đòi tiền chuộc, đánh đập tàn nhẫn, đâm cho ghe chìm, cấm đánh cá trên vùng biển của VN. Điều thô bỉ nhất, những tờ báo trong nước không bao giờ dám nói thẳng tàu của Tàu Cộng làm chuyện tội ác, mà chỉ mơ hồ nói rằng “tàu lạ” tấn công những chiếc ghe đánh cá của Việt Nam.  Coi như Việt Nam hiện nay đang bị mất Ải Nam Quan, phân nửa Thác Bản Giốc, Bãi Tục Lãm, Núi Đất, Hang Pắc Pó, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cùng hàng ngàn cây số vuông vùng biển Đông vào tay Tàu Cộng.

Tàu Cộng sắp xếp những nhân sự cầm quyền tại Việt Nam trong 4 vị trí then chốt: Tổng Bí thư ĐCSVN, Thủ tướng, Chủ tịch nước, và Chủ tịch quốc hội, để chúng ta cùng khẳng định rằng đất nước Việt Nam của ta đang bị Tàu cộng đô hộ.  Qua những kinh nghiệm của qúa khứ lịch sử, đánh Tàu, đuổi chúng ra khỏi nước có lẽ không khó. Điều cần làm trước tiên, là phải lật đổ 4 tên thái thú Dũng Mạnh Triết Trọng. 

http://mylinhng.multiply.com


Phản biện

Nguyễn Hưng Quốc VOA

Tôi không biết ở Việt Nam chữ “phản biện” xuất hiện từ lúc nào và ai là người đầu tiên dùng chữ ấy. Tôi chỉ đoán là nó có lịch sử không lâu lắm. Và nó được ra đời, trước hết, không phải trong lãnh vực chính trị, bởi, trước khi nó trở thành thịnh hành với những trang báo mạng kiểu bauxite Việt Nam với tiêu đề “Tiếng nói phản biện nhiều mặt của người trí thức” thì nó đã được sử dụng khá nhiều trong lãnh vực giáo dục với những “giáo sư phản biện” và “Hội đồng phản biện”.
Tôi rất thích cái chữ phản biện ấy.
Phản biện là dùng lý lẽ để chống lại một cái gì đó. Ở đây có hai điểm: chống và lý lẽ. Như vậy, sự chống đối ở đây chỉ dừng lại ở phạm vi tư tưởng và học thuật. Nó không có tính bạo động và cũng không nhắm đến bạo động. Những lời cáo buộc mà một số chính quyền độc tài thường sử dụng đối với những người phản biện chỉ là một lối vu khống.
Hơn nữa, “cái gì đó” trong định nghĩa trên không phải bao hàm con người hay sản phẩm (bất kể loại gì) của con người. Phản biện khác với chỉ trích: Chỉ trích nhắm vào người. Phản biện cũng khác với phê bình hay phê phán: Ở cả hai từ này, đối tượng có thể là người mà cũng có thể là vật thể (ví dụ tác giả và tác phẩm của họ).
Phản biện chủ yếu là chống lại một luận điểm. Nhưng phản biện lại khác với biện bác. Biện bác nhắm, trước hết, đến sự bác bỏ. Biện luận để bác bỏ. Sự bác bỏ là chủ đích, là mục tiêu duy nhất. Nó có tính cách tiêu cực. Người ta nói hay hay dở, đúng hay sai mặc kệ: người biện bác chỉ khăng khăng tìm cách phủ nhận. Phản biện thì khác. Nó chống đối một luận điểm bằng cách đề xuất một cách nhìn hay một góc nhìn khác để, thứ nhất, người bị phản biện phải cố gắng chứng minh quan điểm của mình là đúng đắn nhất, và thứ hai, để mọi người có thể lựa chọn.
Như vậy, phản biện được xây dựng trên tinh thần đối thoại, và do đó, có tính tích cực và xây dựng.
Ví dụ: đọc một luận án của ai đó, người phê bình chỉ cần nêu lên nhận xét về những cái đúng, cái sai và những cái hay cũng như những cái dở, nhưng không cần thiết phải đề nghị một giải pháp hay một quan điểm khác; người biện bác thì chỉ chăm chăm bác bỏ tất cả những gì người viết nêu lên. Còn người phản biện thì sẽ nói, chẳng hạn: với những cứ liệu mà anh/chị tập hợp được, tôi nghĩ có thể đặt ra giả thuyết như thế này; một giả thuyết có thể khác với những gì anh/chị vừa đề xuất. Bây giờ, xin anh/chị hãy chứng minh là giải pháp của anh/chị thực sự là một giải pháp tối ưu.
Nhắc đến chữ “tối ưu”, tôi sực nhớ đến một bài viết ngắn rất xuất sắc của Giáo sư Phạm Quang Tuấn ở Úc. Bài viết hay đến độ tôi muốn trích toàn văn để chia sẻ với bạn đọc:

Khái niệm “Tối Ưu Hóa” (Optimization)

Phạm Quang Tuấn
Tôi còn nhớ, cách đây hơn bốn chục năm, ông Giáo sư của tôi giải thích về nghề kỹ sư:
“An engineer is someone who can do what any fool can do, but cheaper” (Kỹ sư là một người có thể làm bất cứ cái gì mà thằng ngu nào cũng có thể làm được, nhưng họ làm rẻ hơn).
Đó là khái niệm đầu tiên của tôi về tối ưu hóa. Người Kỹ sư luôn luôn có nhiều cách giải quyết một vấn đề, xây dựng một công trình, và họ có khả năng hơn người “ngoại đạo” là họ có thể giải quyết một cách đỡ tốn kém hơn (nhưng dĩ nhiên không kém chất lượng).
Nhưng, không phải chỉ Kỹ sư: tối ưu hóa là cái mà ai cũng làm. Chỉ có điều là người ta làm mà không biết (“Ủa, mình nói văn xuôi cả đời mà không biết!” - Molière, Le Bourgeois Gentilhomme). Bạn cưới vợ? Bạn đang tối ưu hóa hạnh phúc của bạn – không có vợ thì tự do, có vợ thì ấm áp, cái nào hơn? Bạn mua nhà – mua thì phải vay tiền, phải tốn công tốn tiền sửa chữa, thuê thì mất tiền thuê, cái nào hơn? Mua nhà đắt hay nhà rẻ? Bạn học bài, làm homework – thi đỗ cao thì tương lai tươi sáng, không làm bài thì có thì giờ tán gái, bạn chọn cái nào?
Tất cả những cái đó là tối ưu hóa – bạn phải CHỌN giữa nhiều đường lối để làm tối ưu (optimize) hạnh phúc, hay nói chung là làm tối ưu hệ quả những công sức, tốn kém, tài sản của bạn.
Khi cai quản một quốc gia thì có những sự chọn lựa tương tự. Chính phủ nên chọn xây đường sắt, đường thủy, đường bay hay đường bộ? Dĩ nhiên, đường nào cũng TỐT cả, nhưng đường nào TỐT NHẤT? Và nếu đường sắt thì đường hạng 1 (cao tốc), 2 (trung tốc) hay 3 (hạ tốc) tốt nhất, có lợi cho dân nhất? Và làm vào lúc nào? Bạn khai thác bauxite thì khai thác ở tầm cỡ nào, theo cách nào, trong thời điểm nào, với đối tượng nào là TỐT NHẤT? Bạn chọn cái “tốt”, nhưng KHÔNG TỐT NHẤT thì sẽ thiếu tiền để dùng vào biện pháp TỐT NHẤT, và do đó, bạn sẽ phung phí, và phung phí đưa tới giật lùi. Sự phung phí đó sẽ để hậu quả cho con cái gánh chịu. Tài nguyên của một nước cũng như của một người đều có giới hạn, dùng sai chỗ quá nhiều thì sẽ phá sản. Trong thế giới cạnh tranh, nếu láng giềng của bạn chọn cái tốt hơn bạn, hữu hiệu, ít phung phí hơn, thì họ sẽ vượt lên và đè cổ bạn.
Sự khác biệt chính giữa việc tối ưu hóa cá nhân (lấy vợ/không lấy vợ, mua nhà/thuê nhà) và tối ưu hóa công cộng hay quốc gia là: Việc cá nhân thì cá nhân phải lãnh chịu hậu quả, nếu quyết định sai. Việc quốc gia thì cả nước, cả trăm triệu người dân, cả trăm triệu con cháu chúng ta sau này phải lãnh chịu. Lãnh chịu nghĩa là chịu nghèo hèn lâu dài thêm, chịu cúi đầu cặm cụi trả nợ hay làm nô lệ cho các ông chủ ngoại quốc – về kinh tế, quốc phòng, chủ quyền v.v. - để đền bồi cho sự ngu xuẩn hay tham lam của những kẻ cầm quyền một thời.
Bạn có thể lý luận: đây là tiền vay mượn, ODA, chứ không phải là tiền “của ta”. Nhưng, tiền vay đó thì ai sẽ trả? Xin thưa: con cháu. Vậy đó thực ra là tiền của con cháu (con cháu thường dân, chứ không phải còn cháu các ông lớn, vì con cháu các ông lớn sống phè phỡn bằng tiền lãi của ngân hàng Thụy Sĩ chứ không phải trả nợ ai cả). Nếu bạn không tối ưu hóa việc sử dụng tiền của con cháu người dân, để chi tiêu tối thiểu và có tác dụng tốt tối đa, thì bạn là kẻ tội đồ, thậm chí là kẻ thù của dân tộc.
Vậy, vấn đề không phải là LÀM hay KHÔNG LÀM, mà là làm lúc nào, cách nào, tầm cỡ nào, trình độ nào cho tốt nhất. Mỗi khi ngài Bộ trưởng ra trước Quốc hội để gân cổ chứng minh rằng cách tiêu tiền của ngài TỐT, xin ngài hãy suy nghĩ lại, và tìm cách chứng minh rằng cách đó là tốt NHẤT, theo ý của ngài.
Và mong các đại biểu Quốc hội, thay vì chỉ hỏi “Tốt hay xấu”, hãy biết hỏi “Có cách nào TỐT HƠN không?”
PQT
Như vậy, mục tiêu đầu tiên của phản biện không phải là bác bỏ (như trong biện bác) hay đả kích (như trong chỉ trích) hay tìm khuyết điểm (như trong phê phán) hoặc cả khuyết điểm lẫn ưu điểm (như trong phê bình). Mục tiêu chính của phản biện là thúc đẩy mọi người cân nhắc lựa chọn cái tối ưu.
Mục tiêu thứ hai của phản biện là buộc đối tượng bị phản biện phải tăng cường sự thuyết phục cho các quan điểm của họ. Họ phải chứng minh là họ đúng hơn. Muốn chứng minh như thế, họ cần ít nhất hai điều:
Thứ nhất là minh bạch: Họ phải nêu đầy đủ các luận cứ và luận chứng để biện hộ cho luận điểm của họ. Ví dụ: liên quan đến vấn đề khai thác bauxite ở Việt Nam, người ta cần phải chứng minh các dự án ấy là có lợi, hoặc ít nhất, không có hại gì về các phương diện: quốc phòng (chủ yếu trong quan hệ với Trung Quốc, nước đầu tư chính vào các dự án ấy), môi trường (để không xảy ra tai nạn lũ bùn đỏ như ở Hungary), xã hội (không làm rối loạn đời sống của cư dân địa phương), và kinh tế (liên quan đến vấn đề giá thành và lợi nhuận), v.v... Chứng minh chứ không phải là khẳng định hay hứa hẹn suông.
Thứ hai là phải duy lý hóa: Đối diện với sự phản biện, tức sự chống đối bằng lý lẽ, người ta phải sử dụng lý lẽ để tự vệ. Đây chính là lý do khiến ở Tây phương, người ta thường khuyến khích học sinh và sinh viên tập trung rèn luyện kỹ năng phản biện bằng cách thường xuyên phản biện lại các luận điểm của người khác mà còn của chính mình trong các bài luận văn mình đang viết. Kỹ năng phản biện này thường được gọi là counter-argument.
Về phương diện chính trị và xã hội, với hai mục tiêu (tìm cái tối ưu và thuyết phục) cũng như hai yêu cầu (minh bạch và duy lý) nêu trên, phản biện rõ ràng là một điều cần thiết không những để tránh những chính sách sai lầm mà còn để thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và duy lý hóa, tức, nói chung, quá trình hiện đại hóa của đất nước.

Subject: Kinh hoàng công nghệ làm thuốc giả
Thuốc đông y được xay thành bột trộn với bột thuốc tây y rẻ tiền rồi được dùng chân giẫm lên để ép thành những viên con nhộng “thần dược” chữa bách bệnh nan y.

 




Bất ngờ công nghệ làm thuốc
Bất ngờ công nghệ làm thuốc
Hiện tượng buôn bán thuốc giả đã xuất hiện trên thị trường từ rất lâu, nhưng hình ảnh ra lò của những viên thuốc con nhộng giả khiến người tiêu dùng càng thêm hoang mang.
Vỏ thuốc con nhộng màu vàng được cho vào tấm lọc.
Thuốc giả được chế tạo bằng cách giẫm chân
Khi công an ập vào một cơ sở sản xuất thuốc giả tại thành phố Vũ Hán (Trung Quốc) đã bắt quả tang ngay tại hiện trường hành vi sản xuất thuốc giả “thủ công hơn cả mức thủ công” của những công nhân tại đây.
Ngay từ cửa sổ của căn phòng dùng để sản xuất thuốc giả, người ta đã ngửi thấy mùi thuốc đông y xộc lên mũi. Một công nhân trong xưởng theo yêu cầu của cảnh sát đã thao tác lại quá trình làm thuốc giả.
Đầu tiên, họ xay thuốc đông y thành bột, sau đó cũng nghiền vài viên thuốc tây y rẻ tiền thành bột, hòa vào nhau. Tiếp theo, anh ta lấy ra một công cụ giống như một tấm lọc, đổ vào một nhúm vỏ nửa viên con nhộng màu vàng rồi nhẹ nhàng lắc qua lắc lại, vỏ con nhộng sẽ chui vào những cái lỗ trên tấm lọc đó. Sau đó anh ta đổ bột thuốc vào, rồi đậy một chiếc khuôn có nhét đầy những vỏ viên con nhộng màu đỏ lên.
Kinh khủng nhất là công đoạn ngay sau đó, anh ta dùng chân giẫm đạp lên chiếc khuôn, để nửa viên con nhộng màu đỏ đậy khớp vào vỏ màu vàng. Và hàng trăm viên thuốc con nhộng giả đã được ra lò như vậy. Tại hiện trường, bột thuốc và vỏ con nhộng được quăng vứt khắp nơi, không hề có bất cứ một thiết bị sản xuất hiện đại, vệ sinh nào.
“Thuốc” được sản xuất bằng chân.
Chủ yếu tiêu thụ thuốc giả bằng phương thức bán hàng qua mạng
Thành phần “thuốc” được nhét đầy vào vỏ con nhộng.
Tại cơ sở sản xuất thuốc giả này, cảnh sát thu được những bao bì thuốc có ghi “Viên nang ôn thận giảm đường”, “Viên nang phục khang trị tiểu đường”… cùng 26 loại thuốc giả khác.
Từ cơ sở sản xuất thuốc giả này, công an tỉnh Vũ Hán còn lần ra 3 cơ sở sản xuất thuốc giả khác trên địa bàn.
Thành phẩm.
Hoạt động tiêu thụ thuốc giả được những kẻ bất lương này thông qua việc bán hàng qua mạng để lừa đảo người tiêu dùng. Chúng thuê những công ty xây dựng website chuyên nghiệp để dựng nên những địa chỉ bán hàng hoành tráng qua mạng với giá cả cạnh tranh so với những sản phẩm cùng tính năng khác trên mạng. Chỉ cần khách hàng mắc bẫy là chúng sẽ chăm sóc nhiệt tình bằng cách giao hàng tận nhà.
Những công ty buôn bán thuốc giả tại Trung Quốc hàng năm đã thu lợi bất chính với số tiền khổng lồ được đánh đổi bằng sức khỏe và mạng sống của chính người tiêu dùng.
-

No comments:

Post a Comment