Thursday, August 26, 2010

Việt Nam giữa cuộc xung đột Mỹ-Hoa --



Ngô Nhân Dụng

Trong nước Mỹ có hai phái, một bên là những người tin rằng không thể nào xẩy ra chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc; bên kia nghĩ ngược lại.
Tiêu biểu cho phe thứ nhất là Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh Tòa Bạch Ốc dưới thời Tổng Thống Carter. Năm 2005, trong một cuộc tranh luận về vấn đề này, Brzezinski chủ trì rằng chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc không thể nào xẩy ra. Lý do chính là khả năng quân sự của Trung Quốc còn rất yếu: 40 năm sau khi chế được bom nguyên tử, Trung Quốc mới chỉ có 24 hỏa tiễn đạn đạo để phóng đi, so với hơn ngàn hỏa tiễn của Mỹ, chưa kể các phi đạn phóng đi từ tầu ngầm có khả năng phóng vài ngàn bom, và vài ngàn bom khác sẵn sàng được B52, B-1, B-2 đem đi ném. Vũ khí nguyên tử chính là một yếu tố khiến các cường quốc không đánh nhau, vì chiến tranh sẽ khiến hai bên đều bị hủy diệt. Cũng như trong thời chiến tranh lạnh Nga với Mỹ không thể đánh nhau được.
Nhưng lý luận chính của ông Brzezinski là Trung Quốc không thể gây chiến vì chẳng có lợi gì nếu chiến tranh xẩy ra. Chiến tranh bùng nổ, dù chỉ trong phạm vi giới hạn, thì tất cả dòng tiếp liệu cho kinh tế Trung Quốc sẽ bị cắt. Bốn phần năm nhu cầu năng lượng của nước Tầu tùy thuộc con đường thủy đi qua eo biển Malacca nằm giữa Singapore và Indonesia. Eo biển này đang do hải quân Mỹ kiểm soát với sự thỏa thuận của các quốc gia trong vùng. Khi lâm chiến với Mỹ, cả nền kinh tế Trung Quốc sẽ bị ngưng trệ.
Người đối đáp với ông Brzezinski là Giáo Sư John Mearsheimer thuộc Ðại Học Chicago, tiêu biểu cho khuynh hướng thứ hai, nghĩ là chiến tranh Mỹ Hoa có thể xẩy ra. Mearsheimer nhấn mạnh kinh nghiệm lịch sử, các quốc gia có thể gây chiến hoàn toàn vì lý do chính trị, trái ngược với quyền lợi kinh tế của họ. Năm 1913, Anh Quốc là thị trường lớn nhất cho hàng xuất cảng của Ðức. Ngoại thương chiếm vai trò quan trọng trong kinh tế các nước này, chiếm 52% tổng sản lượng nội địa của Anh, 38% của Ðức và 54% của Pháp; ngoại thương giữa ba nước này đã tăng 65% trong 10 năm. Nhưng sau vụ ám sát Archduke Franz Ferdinand, súng đã nổ và kéo dài 4 năm.
Lý luận chính của Mearsheimer là: Các cường quốc đều tìm cách trở thành bá chủ. Nếu không có khả năng bá chủ thế giới thì nước nào cũng muốn làm bá chủ một vùng, biến thành “sân sau” hay “ao nhà” của họ. Tình tự dân tộc là động cơ chính trị mạnh nhất khiến cho các chính phủ khi gây chiến, dù họ theo chế độ dân chủ hay độc tài. Mearsheimer cho rằng trong vòng 25 năm nữa, Trung Quốc sẽ phải chiếm lại Ðài Loan. Mà muốn đạt mục tiêu đó thì trước hết họ phải làm chủ cả miền Tây Thái Bình Dương.
Trong thế kỷ 19, Tổng Thống Monroe nước Mỹ đã dùng lý luận tương tự để đẩy các cường quốc Âu Châu ra khỏi Châu Mỹ La Tinh. Thời 1930 Nhật Bản đã lý luận giống như vậy khi muốn đuổi các thế lực Âu Mỹ ra khỏi Châu Á và Trung Hoa, để Nhật làm bá chủ. Khi các người lãnh đạo Trung Quốc thấy họ cần động viên lòng ái quốc của dân chúng để tránh những vụ phản đối vì kinh tế đi xuống và bất công xã hội thì họ sẽ đưa ra “chủ thuyết Monroe” của chính họ. Do đó, Trung Quốc nhất thiết sẽ tìm cách đẩy Mỹ ra khỏi “ao nhà” của họ ở vùng Á Ðông. Ðiều này không có nghĩa là họ muốn gây một cuộc Ðại Chiến Thứ Ba. Nhưng muốn làm chủ cái “ao nhà” của họ, họ sẵn sàng chấp nhận một cuộc chiến cục bộ. Trong lúc đó, Mỹ cũng như Nhật Bản, Nam Hàn và các nước Ðông Nam Á như Việt Nam sẽ không thể chấp nhận cho Trung Quốc thực hiện ý định này. Cho nên, chiến tranh không tránh khỏi.
Zbigniew Brzezinski đã bác bỏ ý kiến trên. Ông hỏi nếu nước Mỹ rời bỏ vùng Á Ðông, hoặc bị đẩy ra khỏi vùng này, thì Nhật Bản có ngồi yên hay không? Nước Nhật sẽ tái vũ trang trước khi sự kiện đó xẩy ra. Nhật Bản dư sức chế tạo bom nguyên tử và hỏa tiễn phóng bom. Brzezinski chỉ nói đến nước Nhật, nhưng chúng ta biết còn các quốc gia khác nữa. Nam Hàn cũng dư sức chế bom hạt nhân, Ðài Loan cũng vậy. Các quốc gia này đang bị cả Trung Quốc lẫn Mỹ “hợp tác ngầm với nhau” ngăn cản họ không được làm bom nguyên tử. Các nước này chấp nhận vì họ đang được cái dù nguyên tử của Mỹ bảo vệ. Nhưng nếu đứng trước nguy cơ Trung Quốc đẩy Mỹ và cái dù của Mỹ ra khỏi vùng Á Ðông, chắc chắn các nước trên sẽ phải lo tự vệ. Họ sẽ hành động ngay trước khi mối lo đó thành sự thật, ít nhất hàng chục năm trước.
Các người lãnh đạo ở Bắc Kinh có muốn gây ra một cuộc chạy đua vũ trang tại các nước hàng xóm của họ hay không? Họ có muốn một nước Nhật Bản sôi sục lên vì dân chúng lo bị Mỹ bỏ rơi cho Trung Cộng thao túng hay không? Nhật báo Yomiuri Shimbun ở Tokyo mới nhắc mọi người biết rằng 90% năng lượng dùng trong nước Nhật và hơn 60% thực phẩm dân Nhật ăn hàng ngày tùy thuộc vào đường biển. Không thể để một nước nào làm chủ con đường thủy lộ vào nước Nhật. Nhật có đủ lý do chính đáng để tăng cường hải quân, giữ gìn mạch sống của dân mình. Muốn bảo vệ lực lượng hải quân đó, không lực cần được phát triển, số hỏa tiễn phải nhiều hơn, vân vân. Khi còn nước Mỹ “bảo hộ” về quốc phòng thì Nhật còn phải giữ nguyên bản hiến pháp “hòa bình,” không được phép tổ chức quân lực mà chỉ có lực lượng tự vệ thôi. Nhưng khi thấy “quốc gia lâm nguy” thì dân Nhật sẽ thay đổi hiến pháp! Vì mối lo xa đó, năm ngoái chính phủ Nhật Bản đã đề nghị những buổi họp về hợp tác chiến lược với Ấn Ðộ; và mới họp với Việt Nam trong Tháng Bẩy vừa qua, cùng lúc đó chính phủ Mỹ cũng bầy tỏ thái độ cứng rắn hơn đối với Bắc Kinh về an ninh vùng Biển Ðông.
Giáo Sư John J. Mearsheimer cũng đồng ý là Trung Quốc sẽ không tìm cách chiếm lại Ðài Loan trong mươi năm tới. Nhưng ông nghĩ rằng trong 25 năm thì tình thế sẽ thay đổi hoàn toàn. Trung Quốc sẽ tìm cách trở thành cường quốc ở Tây Thái Bình Dương trong khi Mỹ còn lo bảo vệ vị thế của mình ở châu Mỹ, vì khi đó các nước Brazil, Mexico, Argentina đều lớn mạnh hơn, trực tiếp cạnh tranh với Mỹ.
Sau khi nghe các lý luận của hai chiến lược gia nước Mỹ, chúng ta cũng không thể kết luận là cuối cùng có thể xẩy ra chiến tranh Mỹ-Hoa hay không, và nếu có thì bao giờ xẩy ra. Nhưng dù họ có đánh nhau hay không thì quyền lợi của nước Việt Nam sẽ không thay đổi.
Ðiều quan trọng nhất là Việt Nam phải bảo vệ được vùng hải phận giầu tài nguyên ở Biển Ðông nước ta, ít nhất sẽ bảo vệ những gì còn lại sau khi nhiều hòn đảo đã bị Trung Quốc chiếm đoạt. Muốn bảo vệ các đảo còn chưa bị chiếm, Việt Nam không những phải kết thân với các nước Ðông Nam Á để quốc tế hóa vấn đề này; mà còn phải biết lợi dụng sự kình chống giữa Trung Quốc với Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ ở Á Ðông. Khi nhìn thấy quyền lợi của hai phe đó chắc chắn sẽ xung khắc, Việt Nam không thể nào bỏ qua cơ hội không dùng mối xung đột đó làm đòn bẩy mà nước ta cần vận dụng, để bảo vệ quyền lợi của mình. Có thể nói đây là một chiến lược lâu dài của nước ta, kể từ khi người Tây phương sang Á Châu. Các vua quan triều Nguyễn đã bỏ lỡ cơ hội, không biết dùng mối xung đột giữa các cường quốc để bảo vệ chủ quyền của đất nước.
Cơ hội đó đã mất khi Pháp chiếm Việt Nam. Từ giữa thế kỷ 20 đến giờ, cơ hội lại xuất hiện nhiều lần nhưng đảng cộng sản Việt Nam đã bỏ qua; vì lý do ý thức hệ họ nhất mực kết nghĩa anh em với các nước cộng sản và chống Mỹ đến cùng. Tuy nhiên một cơ hội mới nay đang lộ rõ ít nhất trong vòng hai năm nay. Ðó là khi Trung Quốc tiến thêm những bước mới, hung hăng mạnh bạo hơn trong cuộc cạnh tranh nhằm lấn chân Mỹ ở phía Ðông Á Châu; và đã bị Mỹ phản ứng ngược lại.
Trong thế giới này, mỗi quốc gia vẫn tìm cách lấn chân quốc gia khác, đó không phải là chuyện lạ. Một nước nhỏ như nước ta phải nhìn thấy trước các vụ xung đột quốc tế và lợi dụng để bảo vệ quyền lợi của nước mình. Trước năm 2008 chính phủ Mỹ vẫn chính thức coi Trung Quốc là “đối tác cạnh tranh và hợp tác.” Chính phủ Bush đã nghiêng về phía hợp tác vì quá chú ý đến Trung Ðông và muốn lôi kéo Trung Quốc trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Nhưng chính quyền Obama đã thay đổi; bắt đầu nhấn mạnh đến việc cạnh tranh hơn là hợp tác, sau khi Bắc Kinh đã thay đổi chính sách, trở nên hung hăng hơn trước. Khi Trung Quốc thấy Mỹ lúng túng trong hai cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan, lại thấy hệ thống tài chính Mỹ bị khủng hoảng, thì họ trở thành quá tự tin, đã nhân cơ hội mà lấn bước. Họ vẫn dè dặt lấn tới trong khu “ao nhà” của họ mà thôi, không dám có hành động khiêu khích ngoài vùng Á Ðông.
Hành động lấn tới của Bắc Kinh biểu hiện rõ nhất từ năm nay. Trước đây, Trung Quốc vẫn gọi Tây Tạng và Ðài Loan thuộc vào “quyền lợi cốt lõi” (hạch tâm quyền lợi) của họ. Ðầu năm nay, họ mở rộng thêm, gọi vùng Nam Hải (vùng lưỡi bò gồm Biển Ðông của nước ta và giữa các nước Ðông Nam Á) cũng là vùng quyền lợi cốt lõi. Chúng ta biết người Trung Hoa coi Tây Tạng và Ðài Loan là quyền lợi sinh tử, họ có thể huy động toàn dân quyết tâm bảo vệ hai vùng đó, đó là đất đai của nước Trung Hoa. Nay, chính phủ Bắc Kinh chính thức xếp hàng Biển Ðông của nước ta vào loại này. Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh sẽ nuôi dưỡng và khích động tình tự dân chúng đối với các hòn đảo trong vùng này; không khác gì họ vẫn làm đối với Ðài Loan và Tây Tạng.
Cùng lúc đó, chính phủ Bắc Kinh cũng tấn công các nước Á và Phi Châu bằng tiền, nhất là các nước chính quyền tham nhũng dễ mua chuộc. Bắc Kinh dùng guồng máy “tư bản nhà nước” để xâm lăng kinh tế các nước này, tranh mua các tài nguyên. Trong khi đó các nước tư bản Tây phương vẫn tôn trọng cơ chế thị trường và hay đặt ra các điều kiện về tự do, nhân quyền khi giao thương. Trung Quốc đã bành trướng thế lực mà không cần gây chiến. Tướng Ma Xiaotian (Mã Hiểu Thiên), phó tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc đã nói đến một chiến lược “không đánh mà thắng ở Á Châu.” Bắc Kinh cũng cho phép giới truyền thông trong nước động viên tình tự dân tộc, đưa ra những tín hiệu gây hấn. Trong một bài báo của Ðại Tá Không Quân Ðới Từ, ông đã buộc tội Mỹ đang thực hiện “chiến dịch bao vây Trung Quốc hình lưỡi liềm” “bóp cổ Trung Quốc nhẹ nhàng.” Ông nêu lên dữ kiện là các công ty Mỹ đang điều khiển 21 ngành công nghiệp trong tổng số 28 ngành ở Trung Quốc. Một đại tá khác là Lưu Minh Phúc thuộc Ðại Học Quốc Phòng Quốc Gia, trong cuốn sách của ông về “Giấc mơ Trung Quốc,” phát hành vào Tháng Ba năm 2010, đã yêu cầu Trung Quốc “bỏ đi ảo tưởng và chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đối đầu với Hoa Kỳ về việc thống trị toàn cầu trong thế kỷ 21.” Ðó chỉ là những luận điệu tuyên truyền quốc nội, nhưng có thể chuẩn bị cho các hành động gây hấn sau này.
Các hành động gây hấn mới của Bắc Kinh đối với vùng Ðông Nam Á đã gây nên một bước ngoặt quan trọng trong chính sách của Mỹ. Trước đây, Trung Quốc đã từng tranh chấp biên giới với Ấn Ðộ nhưng chưa bao giờ họ coi vùng giới tuyến đó là quyền lợi cốt lõi. Hiện nay, họ đang phát triển giao thương với các nước Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan and Uzbekistan qua Tổ chức Thượng Hải, mở lại “Con đường Tơ Lụa” xưa, nay được thay bằng Con đường Dầu Khí. Nhưng họ cũng chưa hề gọi vùng biên thùy đó là quyền lợi cốt lõi. Cho nên, nước Mỹ phải nhìn thấy ngay một mối đe dọa mới ở Á Châu, đối với quyền lợi của Mỹ và đồng minh. Những phản ứng của chính phủ Mỹ từ giữa năm 2010 đến nay cho thấy họ bắt đầu phản công lại. Bởi vì không biết lúc nào Bắc Kinh bắt đầu coi những vùng biển ngoài xa, xa hơn Nhật Bản và Phi Luật Tân cũng là “quyền lợi cốt lõi?”
Ðứng trước một cuộc đối đầu không thể tránh được giữa Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam cần phải làm sao cho cán cân ảnh hưởng của cả hai nước quân bình với nhau trong nền ngoại giao của nước mình. Một nước Việt Nam khôn ngoan sẽ không nghiêng về cường quốc nào hết trong mọi cuộc tranh chấp. Chỉ có như vậy mới bảo vệ quốc quyền lợi của tổ quốc.
Nhưng vì trong quá khứ chính quyền Việt Nam đã quá thân thiết với Bắc Kinh, cho nên muốn lập được quân bình thì bây giờ là lúc phải đặt thêm các mối quan hệ với Mỹ chặt chẽ hơn. Nước Việt Nam không nên tỏ ra muốn theo một nước nào để chống lại Trung Quốc. Nhưng phải lập một thế quân bình trong việc bang giao với các cường quốc, từ Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Ðộ, Mỹ, vân vân. Ðây là một lựa chọn không thể nào tránh được, nếu nước ta không muốn tiếp tục bị lệ thuộc mãi vào nước láng giềng phương Bắc.
Một điểm tương đồng trong chính sách ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam hiện nay là chủ trương “đa phương hóa” nếu không phải là quốc tế hóa các tranh chấp ở Biển Ðông. Chính phủ Mỹ đã chính thức đưa ra chủ trương này. Ðối với chính phủ Bắc Kinh thì họ chỉ muốn “chia để trị” các nước Ðông Nam Á bằng những cuộc thương thuyết song phương, họ mạnh mẽ gạt bỏ chủ trương đa phương hóa.
Chính quyền Việt Nam cần phải tỏ ra cương quyết hơn trong vấn đề này. Vì đối phó với một nước láng giếng đã có hai ngàn năm lịch sử lúc nào cũng muốn lấn chiếm và đồng hóa dân tộc mình, thì chỉ còn cách là phải kết bạn với những cường quốc khác. Kết giao không phải để theo ai nhưng để lập lại thế quân bình. Ðáng lẽ các chính quyền Việt Nam đều phải chọn giải pháp này từ hơn 60 năm trước.
Vào giữa thế kỷ 20 các cựu thuộc địa ở Á Châu mới giành được độc lập đều đứng trước hai lựa chọn chiến lược. Thứ nhất là phát triển đất nước theo mô thức kinh tế nào. Thứ hai là liên kết với những cường quốc nào trong một thế giới đầy tranh chấp. Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã chọn nhầm trong cả hai quyết định chiến lược đó. Họ chọn đường lối phát triển theo Liên Xô, sau phải xóa bỏ. Họ chọn liên kết với Nga và Trung Cộng, với kết quả bây giờ muốn đòi lại các đảo ở Hoàng Sa cũng há họng mắc quai.
Muốn xóa bỏ những lỗi lầm quá khứ, bây giờ là lúc phải làm lại từ đầu. Chính sách ngoại giao của nước ta không thể đặt trên nền tảng “huynh đệ” hay “đồng chí” mà phải hoàn toàn đặt trên quyền lợi quốc gia. Giống như trong việc thương mại, một quốc gia không thể coi nước nào khác là đồng chí hay là anh em. Mọi giao dịch chỉ lấy quyền lợi quốc gia làm tiêu chuẩn.
Ngô Nhân Dụng                                                   www.nguoi-viet.com                                                                                          
**************************************


Không thể thấy rõ, thấy hết… Trung Quốc ngay từ đầu --  Dương Danh Dy --  www.rfa.org

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết mới nhất dành riêng cho RFA của ông Dương Danh Dy, một chuyên gia về Trung Quốc, nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Bắc Kinh. Mời quý vị theo dõi.

RFA PHOTO.
Từ trái sang: Cựu Tổng thống Bill Clinton, Đại sứ Việt Nam Lê Công Phụng và Trợ lý Ngoại trưởng Kurt Campbell tại lễ Kỷ niệm 15 năm quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ - Việt Nam hôm 14/07/2010 ở Washinhton DC.

Nhận thức một đất nước là một quá trình

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 15 năm bình thường quan hệ Việt-Mỹ, đầu tháng 7 năm 2010 vừa qua, nhiều cuộc hội thảo khoa học, trao đổi ý kiến… giữa một số chính khách, cựu chính khách, học giả, sinh viên… hai nước Việt, Mỹ đã được tiến hành tại Hà Nội (có cuộc đông tới hơn 150 người).

Tôi là người may mắn được tham dự 3 cuộc và đây là lần đầu tiên tôi được tiếp xúc trực tiếp với năm ba, học giả, người phụ trách một lĩnh vực nào đó của phía Mỹ nhưng là người Mỹ gốc Việt liên tiếp trong một số ngày. Các anh, các cháu ấy đều nói thành thạo tiếng Việt, với tôi điều này quả thật là một hạnh phúc. Trong câu chuyện riêng tư, một anh (tôi xin phép không nêu tên) đã hỏi tôi: bác nhận ra bộ mặt “bá quyền bành trướng” của những nhà lãnh đạo Trung Quốc từ lúc nào?
Tôi đã không ngần ngại nói với anh mấy điều dưới đây:
Nhận thức rõ một vấn đề, một đất nước… là một quá trình, nhưng đối với mỗi người tùy theo trình độ, hoàn cảnh ... mà có thể dài ngắn khác nhau. Đối với tôi, nhận thức Trung Quốc là một quá trình khá dài, từ tin tưởng đến chỗ từng bước từng bước thấy được một phần rồi phần lớn sự thực, và đến bây giờ vẫn chưa chưa dám nói là đã hiểu hết .
Đầu năm 1954, sau thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng tôi được trang bị quân phục mới do nước bạn Trung Quốc cung cấp. Chúng tôi đều thích những chiếc ba lô gọn nhẹ, những đôi giày vải còn thơm mùi cao su, nhưng gây ấn tượng với tôi là chiếc bi đông nhôm đựng nước.
Trên đường hành quân trước đây, ngoài vũ khí, balô quần áo và chiếc ruột tượng đựng gạo ra, hai vật bất ly thân thời đó của chúng tôi là chiếc xẻng (để đào công sự bảo vệ mình và vũ khí) và một đoạn ống vầu vừa cồng kềnh vừa nặng dùng để đựng nước uống khi hành quân và chiến đấu (khi nào hỏng thì tạt vào rừng chặt một ống mới thay thế), nên khi nhận chiếc bi đông mới, việc đầu tiên của tôi là cắt chiếc áo len dệt mà mẹ đã gửi từ vùng địch hậu ra cho, chia làm mấy phần cho mấy anh em cùng tiểu đội để bọc chiếc bi đông đó (một sự lãng phí ghê gớm và đánh mất một kỷ niệm quí báu của người thân, nhưng tuổi trẻ là thế đó).
Sau khi có trang bị mới, chúng tôi được Bác Hồ và Bác Mao (lúc đó hầu như mọi người ở vùng giải phóng đều gọi  như vậy) khao quân. Bữa tiệc khao quân, ngoài các món ăn Việt Nam có thêm món thịt lợn hộp Trung Quốc và thuốc lá Trung Quốc là quà của Bác Mao. Sau những ngày rít thuốc lào, ấn tượng về hai điếu thuốc lá thơm này mạnh đến mức tôi đã nhớ nhãn hiệu của nó (dù lúc đó chưa biết chữ Hán) để sau này khi sang Trung Quốc mới biết đó là thuốc lá Hằng Đại do Thượng Hải sản xuất.
Cảm giác thân thiện với nước Trung Hoa mới đến với tôi như vậy đấy. Rồi thắng lợi tại hội nghị Geneve, ta có một nửa nước. Tôi theo sư đoàn về tiếp quản thị xã Bắc Ninh. Câu thơ “Xưa là rừng núi là đêm, Giờ thêm sông biển lại thêm ban ngày” của Tố Hữu đã nói đúng tâm trạng, ít nhất là của những người lính chúng tôi trên đường ra trận chỉ đánh bạn với đêm đen, nay thoải mái, đàng hoàng đi giữa ban ngày mà không sợ máy bay địch oanh tạc.

Việt Nam - món hàng có giá của Trung Quốc

“Nước bạn Trung Quốc đã giúp ta rất lớn trong thắng lợi này …”, cấp trên phổ biến cho chúng tôi. Sao lại không tin chứ? Thế nhưng nếu lúc đó biết được rằng, như sau này tôi ngộ ra: bắt đầu tại hội nghị ấy, ban lãnh đạo Trung Quốc đã thấy Việt Nam là một “món hàng có giá” có thể dùng để trao đổi, mua bán với mấy nước lớn khác nhằm phục vụ lợi ích chủ yếu của họ thì sự thể sau này sẽ khác đi rất nhiều. Nhưng tiếc rằng ngoài Hồ Chí Minh ra, hình như ít người thấy được sự lợi dụng tinh tế đó.

NixonChuAnLai2-250.jpg
Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tại Bắc Kinh hôm 25-2-1972. Photo courtesy National Archives & Records Administration
Năm 1957, thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai lần đầu tiên sang thăm Việt Nam. Có một hành động - không biết là thực lòng hay thủ đoạn tinh vi, vị thủ tướng nổi tiếng khôn ngoan mềm mỏng này đã tới dâng hương tại đền thờ Hai Bà Trưng. Hành động này được đông đảo dân miền Bắc Việt Nam, kế cả người ở vùng giải phóng cũ và vùng ta mới tiếp quản như các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và vùng đồng bằng Bắc Bộ cho là Trung Hoa cộng sản đối với ta có khác Tầu Tưởng và phong kiến Trung Quốc!
Năm 1958, tôi chuyển ngành sau khi thi đỗ vào Khoa Hóa khóa 3 Đại Học Bách Khoa Hà Nội. Trung Quốc đang thực hiện phong trào “Nhảy vọt lớn”, chúng tôi háo hức theo rõi tình hình, rục rịch làm theo. May mắn là dưới sự lãnh đạo của thầy Tạ Quang Bửu và sau đó là thầy Hoàng Xuân Tùy, ĐH BK Hà nội không luyện thép bằng lò cao thủ công v.v. nhưng tôi còn nhớ, Đại học Nông nghiệp ở mạn Văn Điển lúc đó mấy đêm liền đèn điện sáng một góc trời để đón khách tham quan xem thành quả cấy dầy “em bé có thể đứng trên ngọn lúa" mà không tụt ngã. Ôi cái thời ấu trĩ!
Sau khi tốt nghiệp Kỹ sư máy móc Hóa Chất khóa đầu tiên của ĐHBK Hà nội năm 1962, tôi được phân công về làm việc tại một đơn vị thuộc Bộ Ngoại thương và tháng 8 năm 1966 được cử sang công tác tại Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh. Không biết có phải là cái duyên, cái nghiệp  hay không mà ngày tôi tới Bắc Kinh cũng là ngày các tiểu tướng Hồng Vệ Binh công khai xuất hiện trên đường phố, dùng dao rạch quần ống loe, chặt nát giầy mõm nhái, bắt thay đèn đỏ, tín hiệu dừng xe vì cho rằng màu đỏ là màu cách mạng chỉ tiến không dừng v.v.
Tôi gắng sức tự học để nâng nhanh trình độ Trung Văn, bắt đầu đọc được báo chữ lớn và nghe hiểu tin trên VTTH. Tôi lần lượt được thấy cảnh ông Bành Chân bị các “tiểu tướng” bóp lè lưỡi, cảnh tướng Lã Chính Thao, Bộ trưởng Bộ Đường sắt, đầu  đội mũ bằng giấy cao hơn 1m, không khăn quàng cổ bị “võ đấu” trong một tối mùa đông giá lạnh…, rồi các bài báo chính thống phê phán nặng nề Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Đào Trú, Hạ Long, Bành Đức Hoài.. và một số văn nghệ sĩ, trí thức… nổi tiếng là những “tên phản bội , đầu hàng, quân phiệt, công đoàn vàng, cơ hội hữu khuynh, chống phá tư tưởng Mao Trạch Đông…” những người trong một thời gian dài đã là “bạn chiến đấu thân cận” của “người cấm lái, người thày… vĩ đại”.
Một câu hỏi không thể không đặt ra: đồng chí ra sống vào chết với nhau mà họ còn đối xử tàn tệ như vậy, thì ta là cái thá gì? Lần đầu tiên tôi ngầm tự đặt cho mình câu hỏi đó và bước đầu tìm được câu trả lời.
Song song với những sự việc trên là một số thái độ “nước lớn, trịch thượng” với đủ thủ đoạn mánh khóe lúc trắng trợn lúc xảo quyệt đã được tung ra khi chúng ta làm khác họ, không theo họ.
Không kể những bất đồng xảy ra giữa hai bên trước đó mà tôi được các bậc cha chú tin cậy nói cho biết, nhưng vì chưa thấy tận mắt nên chưa ăn sâu vào dạ. Phải đến năm 1967 khi chúng ta chuẩn bị tiến hành đàm phán với Mỹ tại Paris  về vấn đề Việt Nam tôi mới có dịp trông thấy nhãn tiền. Lúc này đàm phán cấp đại sứ Trung Mỹ đang bị gián đoạn.
Lo ngại Việt Nam trực tiếp tiếp xúc với Mỹ sẽ khiến giá trị của Trung Quốc đối với Mỹ kém đi, trong nội bộ họ vừa phê phán chúng ta là không dám kiên trì chiến đấu, vừa tìm cách trì hoãn đón đoàn cấp cao của ta sang xin viện trợ. Khi đoàn chuyên viên của ta trình bày khó khăn và đề xuất con số cụ thể về viện trợ lương thực, một Vụ phó Trung Quốc đã nói: thời kỳ Trường Chinh, Hồng quân của chúng tôi phải ăn cả cỏ để chống đói và luộc thắt lưng da để ăn cho có chất béo!
Những người Việt Nam có mặt hôm đó không thể nào quên câu nói “đắng họng” này. (Với kỷ luật rất nghiêm của chúng tôi thời đó, câu chuyện này rất ít người biết.) Ấy thế mà sau khi chắp nối được với Mỹ họ lại “khảng khái, vô tư” viện trợ cho Việt Nam và còn bảo: nên lấy một ít miến, táo, mì chính… về cho đồng bào thủ đô Hà Nội ăn tết! Rồi còn nhiều cái hớ (hớ chứ không phải là hứa như phóng viên Mặc Lâm đài RFA đã ghi nhầm khi phỏng vấn tôi) mà chỉ sau một thời gian mới thấy.
 Ôi, trong cái cảnh còn phải nhờ vả người ta, cứ ấm ức rồi lại cám ơn, cảnh giác rồi lại tin cậy … như một mớ bùng nhùng, gỡ mãi mới tìm ra đầu mối (nhưng đến tận bây giờ vẫn còn một số ít người chưa thấy đấy). Chỉ nhờ vào thực tiễn và những bài học cay đắng, cộng với nỗ lực tìm hiểu phân tích…,  chúng tôi mới dần dần hiểu ra. Sự tỉnh ngộ dù chỉ là ban đầu đã mất  nhiều thời gian công sức và trả giá  như vậy đó, bạn ơi! (Tôi không muốn nói đến bao nhiêu cuộc họp hành nội bộ, đấu tranh gay gắt với nhau nhằm tìm ra chân lý)
Còn ai bảo tôi ngu, tôi xin nhận và cám ơn. Xin nói không phải là để bào chữa cho sự kém cỏi của mình, ngay đến Khorutsov, nhân vật nổi tiếng một thời của Liên Xô cũ đã phải cay đắng thốt lên: “chỉ có những thằng ngu mới tin được Trung Quốc” sau khi bị họ lừa một cách vô cùng khôn khéo! Và không ít người Mỹ cũng đã ăn phải quả đắng của Trung Quốc đấy!
Cho nên nói rằng, ngay từ đầu đã hiểu ngay, hiểu sâu, hiểu hết ..Trung Quốc không bị hớ với họ chỉ là thể hiện sự không hiểu gì về Trung Quốc thôi.
Anh bạn mới quen, nhưng có lẽ vì cũng là dân cùng nghiệp nên đã lặng lẽ tỏ vẻ tán đồng.
Tháng tám năm 2010.

Theo dòng thời sự:

No comments:

Post a Comment