Tạp chí sức khoẻ Men’s Health vừa công bố những thực phẩm là “khắc tinh” của bệnh mắc tiểu đường. Nhờ tác dụng gián tiếp của những loại thực phẩm này, bệnh tình sẽ thuyên giảm và cơ thể có sức đề kháng tốt với bệnh tiểu đường.
Các bạn có thể mua hạt Methi seeds ở các tiệm Ấn Độ. (Indian Grocery)
Cuối năm ngoái, Thoại ghé chùa East Boston, gặp thầy ThíchGiác Đức, thì rất ngạc nhiên khi thấy Thầy trông khỏe ra, và đôi mắt không còn lấm tấm ghèn! Buột miệng, Thoại bảo, "Chà, lúc này Thầy trông khỏe ra, mắt lại trong sáng hơn lần trước con gặp!" (Thầy TGD năm nay được 76 tuổi.) Thầy tươi cười bảo, “Mắt tôi trước đây kém vì tôi bị bệnh 'cao đường kinh niên." Gần đây, có một Phật tử đem đến cho tôi một bọc Methi, bảo tôi dùng một ngày khoảng một muỗng cà phê, pha như pha trà, với nước nóng, uống hai lần, sáng tối, và ăn cả xác 'đậu' sau đó. Tôi vì đã có uống thuốc Tây cho bệnh 'cao đường' từ nhiều năm qua mà không khỏi, nên thoạt đầu chẳng tin vào loại diệu dược Methi này. Tuy nhiên, vì nghĩ đến người Phật tử đã có lòng mua tặng, tôi pha uống thử chiều hôm đó; thay vì một muỗng cà phê, tôi thử một muỗng canh. Tôi thật không ngờ, chỉ hơn một tiếng sau, tôi đã bị choáng váng, không ngồi được, người nhà tôi lật đật đo áp huyết, thử máu đầu ngón tay v.v... cho tôi, mới hay lượng đường trong người tôi đã giảm đến mức phải pha nước đường uống để quân bình lại lượng đường trong máu." Nghe vậy, Thoại bạch với Thầy, "Chao ơi, phải chi Thầy được thuốc này sớm chừng một năm, có lẽ cứu được một người bị cưa chân hồi tháng ba rồi!" (Người này, đã mất ngày Jan.03 vừa qua vì 'cưa chân' chỉ cầm hơi, không trị dứt bệnh).
Thoại có hỏi thêm, thì được biết Thầy có dùng thuốc Tây bên cạnh "tách trà đặc biệt" đó. Nhưng cũng từ hôm đó, Thầy theo thuốc Methi, và vì Thầy là cựu Giảng Sư tại Harvard Univ., Thầy đã tra biết Methi là loại "seasoning" của Người Ấn... và có lẽ Người Ấn dùng Methi "khá thường", Thầy bảo, thống kê dân số Ấn bị bịnh “cao đường" hầu như không được nghe nói...
Thoại thì có Bà Xả hảo ngọt, vừa chớm "bệnh hơi cao đường", đôi khi thấy hơi xây xẩm... nên Thoại lật đật mua về cho Nàng thử... Mấy tháng qua, Bà Xã uống thay trà, có thử đến muỗng canh và tin ở khả năng "giảm đường" nên hiện tại dùng hai muỗng cà phê một ngày... chứng "hừng mặt đã khỏi", rất thoải mái.
Thoại có hỏi thêm, thì được biết Thầy có dùng thuốc Tây bên cạnh "tách trà đặc biệt" đó. Nhưng cũng từ hôm đó, Thầy theo thuốc Methi, và vì Thầy là cựu Giảng Sư tại Harvard Univ., Thầy đã tra biết Methi là loại "seasoning" của Người Ấn... và có lẽ Người Ấn dùng Methi "khá thường", Thầy bảo, thống kê dân số Ấn bị bịnh “cao đường" hầu như không được nghe nói...
Thoại thì có Bà Xả hảo ngọt, vừa chớm "bệnh hơi cao đường", đôi khi thấy hơi xây xẩm... nên Thoại lật đật mua về cho Nàng thử... Mấy tháng qua, Bà Xã uống thay trà, có thử đến muỗng canh và tin ở khả năng "giảm đường" nên hiện tại dùng hai muỗng cà phê một ngày... chứng "hừng mặt đã khỏi", rất thoải mái.
Do đó, Quý Vị nào có bịnh Cao Đường, xin hãy thử dùng nó. Một bịch 200g giá $1.00 hoặc $1.40 tùy tiệm bán. Một bịch xài trung bình 1 tuần đến 10 ngày... Nếu Đồng môn nào có thân nhân cần đến loại gia vị đặc biệt này, và không tìm được ở nơi mình ở, xin liên lạc Thoại (?).
Thân chào.
Thoại
Thoại
Email từ Mr. Dam Vu
Các bạn có thể mua hạt Methi seeds ở các tiệm Ấn Độ. (Indian Grocery)
BÀI ĐỌC THÊM
CỎ CA RI
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cỏ Ra ri
Cỏ ca ri hay hồ lô ba (danh pháp khoa học: Trigonella foenum-graecum) là một loài cây thuộc về họ Đậu (Fabaceae). Cỏ ca ri được sử dụng như là cây thuốc (phần lá) cũng như một loại gia vị (phần hạt). Nó được trồng rộng khắp trên thế giới như là một loại cây trồng bán khô hạn.
Tên gọi khoa học của cỏ ca ri là foenum-graecum có nguồn gốc từ tiếng La tinh để chỉ "cỏ khô Hy Lạp". Zohary và Hopf lưu ý rằng người ta vẫn chưa chắc chắn nòi giống hoang dã nào của chi Trigonella đã tiến hóa để trở thành giống cỏ cải được con người trồng, nhưng tin rằng nó được đem vào gieo trồng lần đầu tiên tại khu vực Trung Cận Đông. Các hạt cỏ ca ri hóa than đã được phục hồi tại Tell Halal, Iraq (với niên đại cacbon phóng xạ là khoảng năm 4000 TCN) và tại các tầng thuộc thời kỳ đồ đồng ở Lachish (Shephelah, Israel), cũng như các hạt khô tìm thấy trong mộ của Tutankhamen [1]. Cato Già liệt kê cỏ ca ri cùng cỏ ba lá và đậu tằm như là các cây trồng để nuôi bò (De Agri Cultura, 27).
Các hạt cỏ ca ri màu vàng hay hổ phách, hình thoi, nói chung hay được sử dụng trong việc làm các món ngâm, bột ca ri khô và nhão, và nói chung hay bắt gặp trong các món ăn của ẩm thực Ấn Độ. Các lá non và chồi cỏ ca ri cũng được sử dụng làm rau ăn còn lá tươi hay khô được dùng để tạo hương vị trong nhiều món ăn khác. Các lá khô (người Ấn Độ gọi là kasuri methi) có vị đắng và mùi mạnh đặc trưng.
Tại Ấn Độ, các hạt cỏ ca ri được trộn với sữa chua và được dùng làm dầu dưỡng tóc. Nó cũng là một thành phần để sản xuất khakhra, một loại bánh mì. Nó được sử dụng trong injera/taita, một loại bánh mì chỉ có trong ẩm thực Ethiopia và ẩm thực Eritrea. Từ để chỉ cỏ ca ri trong tiếng Amhara là abesh, và tại đây nó được dùng làm cây thuốc để điều trị bệnh đái tháo đường. Nó đôi khi cũng được dùng như một thành phần để sản xuất một loại bơ (tiếng Amhara: qibé, Tigrinya tại Ethiopia và Eritrea: tesme), và nó là tương tự như ghee trong cách nói của người Ấn Độ. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, tên gọi của cỏ ca ri (çemen) cũng là tên gọi cho một loại bột nhão sử dụng trong pastirma (một món thịt bò ướp gia vị và đem phơi khô trong không khí). Tại Yemen, nó là gia vị chính và là một thành phần thêm vào món ăn dân tộc gọi là saltah. Sự tương tự giữa từ hulba trong tiếng Ả Rập và từ huluba trong tiếng Trung quan thoại biểu lộ tầm quan trọng của cỏ ca ri trong lịch sử. Cỏ ca ri, hay Şambélilé trong tiếng Ba Tư, là một trong bốn cây thuốc được sử dụng trong đơn thuốc của người Iran là ghormeh sabzi.
Tại Ai Cập, các hạt cỏ ca ri được dùng như chè.
Các hạt cỏ ca ri là nguồn giàu polysacarit galactomannan. Nó cũng là nguồn chứa các saponin như diosgenin, yamogenin, gitogenin, tigogenin và neotigogen. Các thành phần hoạt hóa sinh học khác còn có chất nhầy, tinh dầu và các ancaloit như cholin và trigonellin.
Hiệu ứng phụ khi sử dụng, thậm chí chỉ một lượng nhỏ cỏ ca ri (ngay cả khi pha loãng với nước) là mùi xi rô phong hay ca ri trong mồ hôi và nước tiểu, do hợp chất thơm sotolon gây ra. Cỏ ca ri cũng hay được dùng trong sản xuất chất tạo mùi cho các loại xi rô nhân tạo. Hương vị của cỏ ca ri nướng là do các pyrazin thay thế, giống như thì là Ai Cập (Cuminum cyminum). Tự bản thân nó thì nó có vị hơi đắng.
Cỏ ca ri được sử dụng chủ yếu là hỗ trợ tiêu hóa. Nó là lý tưởng để điều trị rò xoang, sung huyết phổi, giảm viêm nhiễm [3]. Nó cũng được sử dụng trong vai trò của chất làm tăng tiết sữa cho các bà mẹ đang nuôi con bú. Nó có thể được tìm thấy trong dạng viên nang tại các hiệu thuốc thực phẩm[2].
Việc sử dụng hạt cỏ ca ri cho thấy nó có tác dụng hạ cholesterol, triglyxerit và các lipoprotein có tỷ trọng thấp ở người và các vật mẫu thực nghiệm (Basch và ctv., 2003). Several human intervention trials chứng minh rằng các hiệu ứng chống đái tháo đường của hạt cỏ ca ri cải thiện phần lớn các triệu chứng trao đổi chất có liên quan tới đái tháo đường kiểu 1 và kiểu 2 ở cả người lẫn các động vật thực nghiệm (Basch và ctv., 2003; Srinivas, 2005). Hiện tại, nó đã có bán dưới dạng viên nang theo các đơn thuốc như là chất bổ sung ăn kiêng để kiểm soát bệnh đái tháo đường và cao cholesterol.
Trong một số thí nghiệm gần đây, hạt cỏ ca ri có tác dụng chống lại ung thư vú (Amin và ctv., 2005) và ruột kết (Raju và ctv., 2006). Các tính chất bảo vệ gan của hạt cỏ ca ri cũng được thông báo trong một vài vật mẫu thực nghiệm (Raju và Bird, 2006; Kaviarasan và ctv., 2006; Thirunavukarrasu và ctv., 2003).
“Khắc tinh” của bệnh tiểu đường
Tạp chí sức khoẻ Men’s Health vừa công bố những thực phẩm là “khắc tinh” của bệnh mắc tiểu đường. Nhờ tác dụng gián tiếp của những loại thực phẩm này, bệnh tình sẽ thuyên giảm và cơ thể có sức đề kháng tốt với bệnh tiểu đường.
1. Táo
Nghiên cứu của các nhà khoa học Phần Lan cho thấy, tỷ lệ nam giới thường xuyên ăn táo và những thực phẩm chứa nhiều quercetin tử vong do mắc bệnh tiểu đường và bệnh tim mạch thấp hơn 20% so với những người mắc bệnh nhưng ít hoặc không thường xuyên ăn táo.
Quercetin chứa nhiều trong những thực phẩm: hành tây, cà chua, các loại rau xanh…
2. Nhục quế (vị thuốc Đông y)
Trung tâm nghiên cứu Dinh dưỡng Mỹ phát hiện, ăn nhục quế thường xuyên và liên tục sẽ kích thích lượng đường trong máu nhanh chóng chuyển hoá thành năng lượng.
Họ đã tiến hành thực nghiệm trong suốt 40 ngày trên một nhóm tình nguyện viên. Kết quả cho thấy việc dùng nhục quế hằng ngày sẽ giúp đường huyết của người bệnh ổn định, đặc biệt là sau bữa ăn, lượng đường không tăng quá nhanh. Tình trạng tim mạch cũng được cải thiện rõ rệt.
3. Cam , quýt
Cơ thể những người mắc tiểu đường thường thiếu vitamin C do đó cần thường xuyên bổ sung loại vitamin này. Tuy nhiên, nên hạn chế việc dùng những viên nén vitamin C để bồi bổ cơ thể mà nên tận dụng nguồn vitamin C có trong những thực phẩm tự nhiên như cam, quýt…
4. Cá biển
Nguy cơ phát bệnh tim mạch ở những người mắc tiểu đường thường cao hơn gấp 3 lần so với những người bình thường. Do vậy, việc nạp nhiều thực phẩm chứa axit béo Omega-3 sẽ giúp ngừa nguy cơ tim mạch. Loại axit béo này có tác dụng làm giảm đáng kể lượng cholesterol có hại, thay vào đó là những cholesterol có lợi.
5. Thực phẩm nhiều chất xơ
Nghiên cứu của một trường đại học thuộc bang Texas, Mỹ, cho thấy, thường xuyên nạp khoảng 24-50g chất xơ mỗi ngày, lượng đường trong máu sẽ giảm rõ rệt.
Thực phẩm giàu chất xơ: trái cây, rau xanh, các loại họ đậu, gạo nếp, bánh mỳ, đại mạch… Đặc biệt là các loại họ đậu, chúng chứa hàm lượng chất béo thấp, ít calo, nhiều chất xơ và protein, do đó có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường và bệnh tim.
6. Trà xanh
Nghiên cứu cho thấy, ăn nhiều thực phẩm giàu chất béo, ít rau xanh, lười vận động đều là những nguyên nhân cơ thể dễ mắc các chứng viêm mãn tính, tạo cơ hội cho bệnh tiểu đường và tim mạch gia tăng.
Trà xanh có chứa nhiều flavnoids có tác dụng hữu hiệu trong việc tiêu viêm, nâng cao sức đề kháng cho cơ thể. Từ đó có tác dụng hạn chế nguy cơ mắc tiểu đường và bệnh tim.
7. Thịt bò
Thịt bò (đặc biệt là thịt nạc) chứa nhiều axit linoleic tổng hợp (CLA) có tác dụng cải thiện chức năng chuyển hoá lượng đường trong máu, ngoài ra còn có tác dụng chống ung thư.
Các nhà khoa học Anh đã tiến hành thực nghiệm về tác dụng của thịt bò với bệnh tiểu đường trên 180 tình nguyện viên. Kết quả cho thấy, những người thường xuyên ăn thịt bò hoặc những thực phẩm giàu CLA sau một năm cân nặng có thể giảm khoảng 9%, nguy cơ mắc tiểu đường cũng giảm 40%.
8. Socola đen
Trường ĐH Tufts ở Boston , Mỹ đã tiến hành nghiên cứu và phát hiện thấy, trong socola có chứa loại chất đặc biệt phần nào giúp ngăn ngừa và trị bệnh tiểu đường tuýp 2. Ngoài ra, sử dụng socola đen hợp lý cũng có tác dụng làm giảm huyết áp, giảm lượng cholesterol, cải thiện chức năng của huyết quản.
Phạm Hằng
Theo People
==================
Nhớ Anh
Nhớ Anh , nhớ lắm anh ơi !
Em ra ngoài chợ để vơi cơn buồn
Gặp hàng bánh đúc xơi luôn
Sơ sơ hai đĩa cơn buồn dịu đi
Nhớ Anh, em thấy bánh mì
Sụt sùi em gặm hết đi ổ dài
Nhớ Anh, em đến hàng khoai
Củ này ăn nhớ thân trai xa nhà
Củ này ăn nhớ đôi ta
Củ này đánh dấu ngày mà mới quen
Nhớ Anh, ghé gánh ốc leng
Em ngồi lể ốc, ý chèng đất ôi !
Nhớ Anh , ăn hết nửa nồi
Thêm ly nước mía để trôi nỗi sầu
Nhớ Anh, nhấm nháp phao câu
Của con gà luộc vừa rầu vừa nhai
Nhớ Anh, đến quán La Cai
Ăn tô mì lớn cho phai cơn buồn
Nhớ Anh , nỗi nhớ tràn tuôn
Lệ rơi , tay bóc nửa buồng chuối tiêu
Nhớ Anh em chẳng ăn nhiều
Sầu riêng em nếm , mất tiêu nửa phần
Nhãn thì chỉ có hai cân
Thùng Xoài có lẽ hết gần nửa thôi
Nhớ Anh ăn uống không trôi
Hàng nào cũng chẳng có ngồi được lâu
Càng ăn , càng nhớ ,càng sầu
Càng nhai , càng nuốt , càng rầu , càng ăn ....
=================
NGOAI RA CHUNG TOI CUNG XIN GOI THEM MOT KINH NGHIEM LA UONG TRA MUOP DANG
---LOAI BAN TAI CHO 0.99/GOI, UONG DUOC 4
NGAY
---LOAI LAM TAI NHA CO TRONG MUOP DANG
TRAI CHUA GIA XAT LAT , XAT LUON HAT DEM PHOI KHO LAM TRA
---LAM BANG CONG VA LA PHOI KHO----CAT
BOT LA GIA LAM TRA.....
TOI VA BAN TOI DA UONG LIEN TIEP 2
THANG... TU 140. 130 NAY DO TRONG KHOANG TU 85 DEN 110.
MONG CAC BAN TIM HIEU THEM.......
---LOAI BAN TAI CHO 0.99/GOI, UONG DUOC 4
NGAY
---LOAI LAM TAI NHA CO TRONG MUOP DANG
TRAI CHUA GIA XAT LAT , XAT LUON HAT DEM PHOI KHO LAM TRA
---LAM BANG CONG VA LA PHOI KHO----CAT
BOT LA GIA LAM TRA.....
TOI VA BAN TOI DA UONG LIEN TIEP 2
THANG... TU 140. 130 NAY DO TRONG KHOANG TU 85 DEN 110.
MONG CAC BAN TIM HIEU THEM.......
=================
Thấp khớp, Gout
1- Theo nội dung thư Anh gởi, không thấy đề cập đến những bệnh khác của Anh mắc phải trong 10 năm trở lại đây để em có thêm dữ kiện tư vấn chính xác hơn. Có lẽ đây là lần đầu tiên Anh bị sưng khớp ngón chân và sưng đau lan sang khớp khác. Chắc là bác sĩ điều trị đã kê toa kháng sinh, giảm viêm, giảm đau nhức, tăng đề kháng cho Anh?; Hy vọng Anh đã cảm thấy triệu chứng bệnh thuyên giảm.
Thực ra thì bệnh GÚT là do hóa tính của máu bị thay đổi bất thường, máu chứa nhiều MUỐI URAT và bất ngờ kết tinh tại chỉ một khớp cố định, thường là ngón chân cái và đau cấp tính rất dữ dội, không lan tỏa sang khớp khác. Bệnh xảy ra khi bệnh nhân bị bất ổn về tâm sinh lý, lớn tuổi, mắc bệnh cấp tính khác, hoặc ăn uống một vài loại thức ăn nước uống không phù hợp với bệnh (như lòng heo, rượu mạnh…) khiến sức khỏe suy sụp, là bệnh lại trỗi dậy hoành hành đúng vào chỉ một khớp lần trước đã bị. Do có những triệu chứng sưng, nóng, đỏ, đau, là một cách phòng vệ của cơ thể đối với các tác nhân có hại; mà nhiều người hiện nay cho là nhiễm trùng virus hoặc vi khuẩn. Những vi sinh vật này ẩn nấp mãn tính yên ổn ở đâu đó trong cơ thể (như trong gan; lách; hạch amidan, phổi, đặc biệt là phần lớn từ ở trong miệng nơi răng sâu, răng trám…), chúng tràn vào máu với số lượng ồ ạt lúc thuận tiện, tăng sinh như vũ bão trong máu; và thải rất nhiều độc tố khiến lý-hóa tính của máu thay đổi và gây nhiễm trùng huyết.
Bệnh GIẢ GÚT cũng do hóa tính của máu thay đổi do chứa nhiều MUỐI CAN-XI, và thường tấn công nhiều khớp, hoặc lan tỏa từ từ sang nhiều khớp. Bệnh do suy thận khiến số lượng lớn muối can-xi không được lọc thải, gây kết tinh và đọng lại dần dần ở các khớp. Nguyên nhân suy thận cấp cũng được nhiều người cho là nhiễm trùng như trong trường hợp bệnh gút kể trên.
Đối với hai bệnh đó, nếu tác nhân gây bệnh trong máu là những loại vi khuẩn có ái lực với những loại kháng sinh hiện nay, thì xem ra bệnh sẽ được chữa khỏi trong khoảng 1-2 tuần; nhưng bệnh sẽ tái phát vào một dịp khác khi sức đề kháng của cơ thể bị suy sụp. Mặt khác, nếu tác nhân gây bệnh là virus hoặc những loại vi khuẩn đề kháng kháng sinh, thì với những tân dược chữa triệu chứng sưng, nóng, đau…thì bệnh nhân thấy bớt đau đớn trong vài tuần, nhưng rồi bệnh sẽ trở lại nặng hơn, virus và vi khuẩn KKS này chọn khớp và thận làm nơi định cư thứ hai nữa, và chúng sinh sôi nảy nở và thải độc tố vào đấy, dẫn đến những tổn thương vĩnh viễn như thoái hóa khớp vĩnh viễn và suy thận mãn rất nguy hiểm, mà giai đoạn cuối phải lọc máu suốt đời !
2- DẦU DỪA, do có monolaurin là chủ đạo chiếm tỷ lệ từ 47-52%, cộng với 9 loại a-xít béo khác, được thiên nhiên hòa trộn trong một tỷ lệ cân đối thích hợp; 10 loại a-xít béo này có khả năng tiêu diệt nhiều loại virus, vi khuẩn, nấm mốc độc hại trong và trên cơ thể con người; trong đó có bệnh GÚT, GIẢ GÚT, VIÊM THẬN mà rất nhiều khả năng Anh nhiễm phải.
Anh nên theo hướng dẫn sau, nhiều bệnh nhân viêm khớp đã được chữa lành rồi đó:
- Nhai-Súc Dầu Dừa ngay sáng sớm khi thức dậy trong 20 phút cùng lúc với thể dục buổi sáng, sau đó nạo sạch lưỡi và chải răng bình thường.
- Uống trực tiếp dầu trước bữa ăn: ngày đầu 10ml/Lần; ngày2: 10ml/L X 2L; ngày3: 10ml/L X 3L; ngày4: 40ml/3L; ngày5 trở đi: 60ml/3lần.
- Thoa sức Dầu: cho Dầu Dừa vô lọ thuốc nhỏ mắt, ngâm vô ly nước sôi khoảng 5 phút để dầu nóng đến khoảng 45-50 độ Celcius mục đích để dầu thấm nhanh qua da, nhỏ vài giọt lên khớp sưng và xoa đều. Cứ 3 giờ đồng hồ lập lại như vậy. Nhanh khỏi lắm.
3- Anh nên ghé qua nhà Ngoại và nhà Nội (em giới thiệu cả hai Nhà này, Nội là web trong Nước và ngược lại, để Nhà nào truy cập khó khăn thì có Nhà khác ghé chơi) của chương trình Tin Vui Cho Người Bệnh Nghèo, để tìm hiểu thấu đáo về bệnh liên quan của Anh, đồng thời cũng mời Anh xem thêm video Suy Thận Mãn và cách điều trị nếu Bệnh THẬN chưa chuyển sang thể mãn tính nguy hiểm.
4- Cầu chúc Thượng Đế chữa lành gián tiếp cho Anh qua Liệu Pháp Dầu Dừa rẻ tiền này. Khi đã khỏi nhiều bệnh và cơ thể đã trở nên khỏe mạnh yêu đời rồi, mong Anh tiếp tục sử dụng mỗi tháng chỉ 1 lít dầu dừa thôi (tốn kém chỉ khoảng 2 đô la Mỹ, giá ở VN) để duy trì sức khỏe. Anh và gia đình không còn phải tiêu tốn nhiều ngân quỹ cho thuốc men nữa. Anh sẽ phải gánh trách nhiệm loan truyền TIN-VUI lên vai, vui vẻ lên đường thông báo cho thiên hạ bằng nhiều cách; thay vì muốn chịu lãnh án phạt như ý Anh muốn trong thư.
Cầu chúc Anh vạn an, hạnh phúc.
Em: MĐD
Theo định nghĩa của các chuyên gia y học, thấp khớp là bệnh có biểu hiện các khớp bị đau, sưng (viêm) và giới hạn hoạt động. Tất cả các dạng viêm khớp phần lớn đau không rõ nguyên nhân, thường gặp ở nữ giới hơn nam giới. Phổ biến nhất có 5 dạng:
Viêm khớp dạng thấp ở phụ nữ trẻ: Là một trong những bệnh tự miễn khó tránh, gây nên bởi một phản ứng dị ứng trong cơ thể, chủ yếu ảnh hưởng đến các khớp xương ở bàn tay, bàn chân, cổ tay và mắt cá chân.
Viêm xương khớp: Khác hoàn toàn dạng trên vì thực ra không có viêm tấy, xuất hiện vào cuối tuổi trung niên. Bệnh được xem là do tiến trình lão hóa "tự nhiên" của các khớp. Tuy nhiên với người già trước tuổi thì hiện tượng này xuất hiện sớm hơn.
Viêm khớp nhiễm trùng: Có thể xuất hiện khi mắc phải một bệnh nhiễm trùng, chẳng hạn như bệnh cúm, hay có thể là hậu quả của một bệnh nhiễm vi khuẩn với một bệnh lây bằng đường tình dục, chẳng hạn bệnh lậu.
Viêm đốt sống: Cột sống là bộ phận phải chịu rất nhiều sức ép trong suốt cuộc đời. Khi các khớp cột sống bị ảnh hưởng của bệnh viêm khớp, chúng có thể gây sức ép lên các dây thần kinh và phát sinh ra chứng đau dọc theo cánh tay với cảm giác tê và đau nhói ngón tay, đau ở vùng thắt lưng. Ngoài ra còn sinh ra chứng đau dây thần kinh hông lan xuống mông và phía sau cẳng chân.
Thống phong (Goutte): Hay xảy ra khi hàm lượng acid uric tăng trong máu; phần nhiều do ăn uống các loại thức ăn có nhiều chất đạm từ phủ tạng động vật (có nhiều nhân tế bào), gan, tim, cật... kèm với uống rượu mạnh, cà phê, trà đậm. Bệnh nhân hay đau các khớp như khớp ngón chân cái, đầu gối... và thường dư cân.
Thức ăn cần thiết
Bổ sung một số acid béo:
- Acid béo hệ Omega-3: Acid này có nhiều trong các loại cá giàu chất béo, có khả năng ngăn chặn phản ứng của hệ miễn dịch gây ra chứng viêm khớp, làm thuyên giảm các triệu chứng của bệnh này. Một số công trình nghiên cứu khi cho bệnh nhân dùng những liều dầu cá từ 2-4g, thậm chí 5g/ngày, đã cho một số kết quả khá hứa hẹn: khớp bớt cứng và ít đau hơn.
Những loại cá giàu acid béo hệ Omega-3 gồm: cá hồi , cá thu, các trích, cá mòi, cá ngừ, cá trống. Tuy nhiên, bệnh nhân nên xin ý kiến bác sĩ trước khi dùng dầu cá liều cao như trên vì dầu cá ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình đông máu (nhất là khi nhổ răng hay tiểu phẫu). Thêm vào đó, dầu cá liều cao cũng có thể tương tác bất lợi với những loại thuốc đang uống theo toa để điều trị một bệnh khác (như hạ huyết áp chẳng hạn).
Acid béo hệ Omega-6 GLA (tức acid gamma-linolenic) : có khả năng ngăn chặn tiến trình sản sinh ra các chất prostaglandin gây chứng viêm. Hai công trình nghiên cứu cũng đã cho kết quả hứa hẹn với liều 1-3g/ngày. Tuy nhiên, không dễ tìm ra nguồn GLA. Dầu anh thảo (Evening primrose oil) có GLA, nhưng giá thành khá cao.
Ở Việt Nam, có thể tận dụng vi tảo Spirulina (9-11g/kg) dưới dạng viên nang 400mg tảo khô (tên biệt dược Linaforce). Theo lời khuyên của ông bà Ripley Fox- những người đầu tiên giới thiệu tảo Spirulina cho Việt Nam, người bị thấp khớp nên dùng 10g bột tảo khô mỗi ngày (tương đương 90mg acid GLA).
Các vitamin:
- Tác dụng kháng oxy hóa của các vitamin C, D, E và beta-carotene (còn gọi là tiền vitamin A) có thể giúp phòng tránh được một số dạng viêm khớp. Vitamin C và D có khả năng cải thiện bệnh viêm xương- khớp. Một công trình nghiên cứu mới đây cũng chứng minh khả năng làm chậm hẳn sự tiến triển của căn bệnh này ở đầu gối, chỉ với liều nhỏ dưới 150mg vitamin C (tương đương với hàm lượng sinh tố của 2 ly cam vắt) và 400 đơn vị quốc tế (IU) vitamin D/ngày.
Người ta cũng đã chứng minh các thức chứa vitamin E có tác dụng giảm đau chống viêm. Còn beta-carotene (có nhiều trong cà rốt, cà chua, bí rợ, rau xanh... và các loại trái cây, rau củ có màu đỏ) cũng có ông dụng tương tự. Như vậy vấn đề bảo đảm chế độ dinh dưỡng đầy đủ các vitamin nói trên, ăn nhiều rau và trái cây tươi là việc rất nên làm đối với các bệnh nhân bị thấp khớp.
====================
Người thấp khớp, Gout ... nên ăn gì?
TVĐĐ - 07/06/2010
Rau xanh, vài ly cam vắt, một số sản phẩm giản dị hàng ngày... Chế độ dinh dưỡng xem ra không có gì đặc biệt, nhưng lại có thể giúp bệnh nhân thấp khớp giảm nhiều đau đớn.Theo định nghĩa của các chuyên gia y học, thấp khớp là bệnh có biểu hiện các khớp bị đau, sưng (viêm) và giới hạn hoạt động. Tất cả các dạng viêm khớp phần lớn đau không rõ nguyên nhân, thường gặp ở nữ giới hơn nam giới. Phổ biến nhất có 5 dạng:
Viêm khớp dạng thấp ở phụ nữ trẻ: Là một trong những bệnh tự miễn khó tránh, gây nên bởi một phản ứng dị ứng trong cơ thể, chủ yếu ảnh hưởng đến các khớp xương ở bàn tay, bàn chân, cổ tay và mắt cá chân.
Viêm xương khớp: Khác hoàn toàn dạng trên vì thực ra không có viêm tấy, xuất hiện vào cuối tuổi trung niên. Bệnh được xem là do tiến trình lão hóa "tự nhiên" của các khớp. Tuy nhiên với người già trước tuổi thì hiện tượng này xuất hiện sớm hơn.
Viêm khớp nhiễm trùng: Có thể xuất hiện khi mắc phải một bệnh nhiễm trùng, chẳng hạn như bệnh cúm, hay có thể là hậu quả của một bệnh nhiễm vi khuẩn với một bệnh lây bằng đường tình dục, chẳng hạn bệnh lậu.
Viêm đốt sống: Cột sống là bộ phận phải chịu rất nhiều sức ép trong suốt cuộc đời. Khi các khớp cột sống bị ảnh hưởng của bệnh viêm khớp, chúng có thể gây sức ép lên các dây thần kinh và phát sinh ra chứng đau dọc theo cánh tay với cảm giác tê và đau nhói ngón tay, đau ở vùng thắt lưng. Ngoài ra còn sinh ra chứng đau dây thần kinh hông lan xuống mông và phía sau cẳng chân.
Thống phong (Goutte): Hay xảy ra khi hàm lượng acid uric tăng trong máu; phần nhiều do ăn uống các loại thức ăn có nhiều chất đạm từ phủ tạng động vật (có nhiều nhân tế bào), gan, tim, cật... kèm với uống rượu mạnh, cà phê, trà đậm. Bệnh nhân hay đau các khớp như khớp ngón chân cái, đầu gối... và thường dư cân.
Thức ăn cần thiết
Bổ sung một số acid béo:
- Acid béo hệ Omega-3: Acid này có nhiều trong các loại cá giàu chất béo, có khả năng ngăn chặn phản ứng của hệ miễn dịch gây ra chứng viêm khớp, làm thuyên giảm các triệu chứng của bệnh này. Một số công trình nghiên cứu khi cho bệnh nhân dùng những liều dầu cá từ 2-4g, thậm chí 5g/ngày, đã cho một số kết quả khá hứa hẹn: khớp bớt cứng và ít đau hơn.
Những loại cá giàu acid béo hệ Omega-3 gồm: cá hồi , cá thu, các trích, cá mòi, cá ngừ, cá trống. Tuy nhiên, bệnh nhân nên xin ý kiến bác sĩ trước khi dùng dầu cá liều cao như trên vì dầu cá ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình đông máu (nhất là khi nhổ răng hay tiểu phẫu). Thêm vào đó, dầu cá liều cao cũng có thể tương tác bất lợi với những loại thuốc đang uống theo toa để điều trị một bệnh khác (như hạ huyết áp chẳng hạn).
Acid béo hệ Omega-6 GLA (tức acid gamma-linolenic) : có khả năng ngăn chặn tiến trình sản sinh ra các chất prostaglandin gây chứng viêm. Hai công trình nghiên cứu cũng đã cho kết quả hứa hẹn với liều 1-3g/ngày. Tuy nhiên, không dễ tìm ra nguồn GLA. Dầu anh thảo (Evening primrose oil) có GLA, nhưng giá thành khá cao.
Ở Việt Nam, có thể tận dụng vi tảo Spirulina (9-11g/kg) dưới dạng viên nang 400mg tảo khô (tên biệt dược Linaforce). Theo lời khuyên của ông bà Ripley Fox- những người đầu tiên giới thiệu tảo Spirulina cho Việt Nam, người bị thấp khớp nên dùng 10g bột tảo khô mỗi ngày (tương đương 90mg acid GLA).
Các vitamin:
- Tác dụng kháng oxy hóa của các vitamin C, D, E và beta-carotene (còn gọi là tiền vitamin A) có thể giúp phòng tránh được một số dạng viêm khớp. Vitamin C và D có khả năng cải thiện bệnh viêm xương- khớp. Một công trình nghiên cứu mới đây cũng chứng minh khả năng làm chậm hẳn sự tiến triển của căn bệnh này ở đầu gối, chỉ với liều nhỏ dưới 150mg vitamin C (tương đương với hàm lượng sinh tố của 2 ly cam vắt) và 400 đơn vị quốc tế (IU) vitamin D/ngày.
Người ta cũng đã chứng minh các thức chứa vitamin E có tác dụng giảm đau chống viêm. Còn beta-carotene (có nhiều trong cà rốt, cà chua, bí rợ, rau xanh... và các loại trái cây, rau củ có màu đỏ) cũng có ông dụng tương tự. Như vậy vấn đề bảo đảm chế độ dinh dưỡng đầy đủ các vitamin nói trên, ăn nhiều rau và trái cây tươi là việc rất nên làm đối với các bệnh nhân bị thấp khớp.
BS. Nguyễn Lân Đính
http://thienviendaidang.net
Bệnh tiểu đường
Nguyễn Thượng Chánh, DVM
Bệnh tiểu đường
Nguyễn Thượng Chánh, DVM
Bệnh tiểu đường loại II rất phổ biến trong giới bà con Việt Nam mình sống tại hải ngoại cũng như ở bên nhà, đặc biệt là những người từ 45 tuổi trở lên.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, năm 2003 có lối 194 triệu người bị bệnh tiểu đường . Số nầy có thể sẽ tăng gấp hai vào năm 2025.
Tại Canada, ước lượng có vào khoảng 1.8 triệu người bị bệnh tiểu đường loại II, tương đương với 8% dân số trưởng thành.
Riêng tại Hoa Kỳ, có thể có đến 54 triệu người tuổi từ 45 đến 74 đang trong tình trạng tiền tiểu đường prediabetes và lối 8 triệu người bị bệnh diabetes thật sự.
Việt Nam hiện có trên 2 triệu bệnh nhân tiểu đường chiếm 4.4% dân số thành thị.
Trên 5% dân số trung Quốc tuổi từ 35 đến 74 bị bệnh tiểu đường.
“Trong báo JAMA số 20 ra ngày 27-5-2009, J.C.N. Chan và csv dựa vào các báo cáo bằng tiếng Anh từ tháng Giêng năm 1980 đến tháng Ba năm 2009 đã viết một bài tổng quan về tiểu đường loại 2 ở Á châu…
Theo các tác giả những yếu tố làm cho tiểu đường tăng nhanh ở Á châu là sự toàn cầu hóa với sự chuyển nhượng kỹ thuật và tăng trưởng kinh tế nhanh, sự thay đổi cách ăn và cách sống.
Người Á châu ít vận động hơn trước, bị căng thẳng và thiếu ngủ hơn, hút thuốc lá, ăn mỡ và uống nước ngọt nhiều hơn, ăn gạo xay trắng, gạo của Việt nam có chỉ số đường từ 86-109. Nhiều genes tiểu đường mới được tìm thấy ở người da trắng cũng được xác nhận ở người Á châu. (Theo Bs Nguyễn Văn Đích, Tiểu đường loại 2 ỏ Á châu, Ydượcngàynay).”
Tiền tiểu đường (Prediabetes) đi trước, tiểu đường (Diabetes) theo sau.
Trước khi bệnh tiểu đường được chẩn đoán thật sự, chúng ta phải trải qua một giai đoạn xáo trộn biến dưỡng trong nhiều năm với những triệu chứng như béo phì, rối loạn dung nạp glucose Impaired glucose tolerance, có nghĩa là glucose máu có khuynh hướng tăng hơn mức bình thường (5.8mmol/L hay 105 mg/dl) chút ít và nằm ở khoảng từ 6,1 đến 6,9 mmol/L (110-125mg/dl) . Bác sĩ gọi đây là tình trạng tiền tiểu đường (prediabetes) .
Danh từ Prediabetes là một chẩn đoán lâm sàng tương đối còn mới mẻ và được sử dụng lần đầu tiên năm 2002 bởi hai cơ quan The US Department of Health and Human Services và The American Diabetes Association, với mục đích chính là để nhấn mạnh vào việc phòng ngừa bệnh tiểu đường, đã không ngừng gia tăng trong dân chúng Mỹ.
Tùy theo test thử nghiệm mà Prediabetes còn được gọi bằng những tên khác nhau như tình trạng xáo trộn dung nạp glucose (impaired glucose tolerance IGT) hoặc tình trạng xáo trộn glucose lúc bụng đói (impaired fasting glucose IFG).
Prediabetes là giai đoạn dự báo của bệnh diabetes type II trong tương lai.
Làm sao biết được mình đã bị prediabetes?
Tình trạng prediabetes không có một biểu hiện lâm sàng rõ rệt nào hết nếu không thử máu để đo mức đường glucose của mình.
Tùy theo tình trạng của bệnh nhân mà bác sĩ cho thử loại test nào.
Có hai tests có thể được thực hiện:
+ Test 1: Test glucose lúc bụng đói (Fasting Plasma Glucose Test)
Test thực hiện lúc sáng sớm sau khi bạn phải nhịn ăn qua đêm ít nhất 8 tiếng đồng hồ trước đó.
- Nếu đường huyết glycemia đo được từ 110 tới 125mg/dl (6,1 – 6.94mmol/L) có nghĩa là có sự xáo trộn glucose lúc bụng đói (impaired fasting glucose). Đây là tình trạng prediabetes.
- Nếu đường máu từ 7mmol/L hay 126 mg/dl trở lên là bạn thật sự đã bị bệnh tiểu đường rồi.
+ Test 2: Test glucose sau khi ăn (Two hour oral glucose tolerance test hay glycémie provoquée)
Người ta cho bạn uống 75g glucose, bạn ngồi lại trong phòng chờ, và máu được rút ra để đo đường huyết sau đó 2 tiếng đồng hồ.
- Nếu hàm lượng glucose nằm ở giữa giới hạn 140 -199mg/dl (7.78 - 11.06mg/L) có nghĩa là có hiện tượng xáo trộn dung nạp glucose (impaired glucose tolerance). Đây là prediabetes.
** Nếu bị prediabetes rồi, thì mỗi năm bạn cần phải được test lại để theo dõi sự tiến triển của nó. Trong giai đoạn nầy, bác sĩ chỉ khuyên bệnh nhân nên ăn uống cho kỹ lưỡng và nhớ tập thể dục đều đặn mà thôi chớ chưa cần phải uống thuốc.
Tiểu đường loại 2 (Diabetes type 2)
Tiểu đường loại 2, là một bệnh mãn tính với biểu hiện chính là đường huyết rất cao vì tụy tạng tiết không đủ insulin cần thiết, hoặc đủ insulin nhưng nó lại bị đề kháng (insulin resistance) nên không còn hữu hiệu trong việc giúp hấp thụ đường glucose từ máu vào tế bào.
Mệt mỏi, mất cân, ăn nhiều (polyphagia) , uống nước nhiều (polydipsia) và đi tiểu nhiều (polyuria) là những dấu hiệu chính của bệnh tiểu đường.
Nguy hiểm nhất là bệnh có thể gây những biến chứng về mắt (rétinopathie diabétique) đưa đến mù lòa, làm suy thận (insuffisance rénale), hoặc dẫn đến các bệnh lý về tim mạch (cardiopathies) , về thần kinh (neuropathie diabétique) hoặc làm loét chân (ulcération des pieds) đưa đến việc cưa chân... Bệnh nhân chết vì các biến chứng của bệnh tiểu đường gây ra mà thường nhất là bị hư thận.
Theo Bs Nguyễn Văn Đức (Rosemead,Cali) : Có 4 test sau đây được sử dụng để định bệnh bệnh tiểu đường loại 2 :
1) Đường máu đo sau khi nhịn đói ít nhất 8 tiếng cao hơn 125mg/dl
2) Người bệnh có triệu chứng của tiểu đường và đường máu đo lúc không nhịn đói thấy cao trên 200mg/dl
3) Oral glucose tolerance test bất thường sau khi cho ăn đường glucose 1.75g/kg tối đa 75g, 2 tiếng sau đo máu, thấy vẫn cao hơn 200mg/dl
4) Trị số HbA1c (glycated hemoglobin) biểu thị lượng đường trung bình trong máu chúng ta trong vòng 3 tháng qua bằng hay cao hơn 6.5
Nếu nghi bệnh tiểu đường, chúng ta dùng một trong 4 cách định bệnh trên, và nếu thử lại lần nữa vẫn bất thường như vậy, người bệnh được xem là có bệnh tiểu đường.
(Bs Nguyễn Văn Đức. Tiểu đuờng loại 2. Yduocngaynay. com)
Có rất nhiều loại thuốc uống để kềm hãm đường huyết, và nếu trường hợp quá nặng thì cần phải chích insuline mỗi ngày. Đa số thuốc đều có phản ứng phụ (side effects) bất lợi. Tùy theo tình trạng sức khỏe của mỗi người cũng như sự hiện diện của biến chứng mà bác sĩ kê toa một loại thuốc nào đó, hoặc đổi thuốc khác, hoặc điều chỉnh liều lượng của món thuốc cho thích hợp hơn, v.v...
Có người cũng sử dụng thuốc thiên nhiên để giúp kéo đường huyết xuống phần nào, hư thật ra sao khó có ai biết được một cách chắc chắn hết.
-Bs Nguyễn Thượng Chánh & Ds Nguyễn Ngọc Lan.Có thể hạ đường huyết bằng thuốc thiên nhiên không?
http://www.yduocnga ynay.com/ 5-5NgTChanh_ HaDuongHuyet_ ThuocThienNhien. htm
Chỉ số đường huyết (Glycemic index, GI) là gì?
Từ lâu, chất bột đường glucide hay carbohydrate được xếp theo cấu trúc hóa học của chúng, nghĩa là theo chiều dài của chuỗi tinh bột amidon và theo tốc độ tiêu hóa và hấp thụ tại ruột non.
Tuy nhiên, người ta cũng ghi nhận rằng nhiều loại đường (mono, di, và polysaccharide) và thức ăn có glucides chẳng hạn như rau quả, ngũ cốc, sữa có thể làm tăng đường huyết một cách riêng biệt khác nhau.
Từ nhận xét trên, Gs David Jenkin, Canada là người đầu tiên đã nêu ra ý niệm chỉ số đường huyết vào năm 1981. Ý niệm nầy lần hồi đã thay thế ý niệm đường đơn giản (các loại đường tận cùng bằng OSE như fructose, saccharose,lactose, maltose…) và đường phức tạp (như cơm, gạo, ngũ cốc, rau, đậu, pasta…) đã lỗi thời.
Biết rằng đường đơn giản được chuyển thành glucose và được hấp thụ rất nhanh.Ngược lại đường phức tạp phải cần sự tác động của vài loại enzymes để chuyển ra glucose vì vậy có sự hấp thụ chậm hơn đường đơn giản…
Các nhà khoa học cho biết sự thặng dư glucose trong máu khiến tụy tạng phải tiết ra thường xuyên insulin và yếu tố insulin like growth factor one IGF-1.
Theo thời gian, tình trạng nầy sẽ đưa đến hiện tượng kháng insulin mà bệnh tiểu đường là hậu quả, và đồng thời cũng có thể có nhiều nguy cơ dẫn đến cancer (vú, ruột già, v.v...).
Chỉ số đường huyết là vận tốc chuyển hóa của một carbohydrate ra thành glucose để được hấp thụ vào máu.
Một thức ăn có GI càng cao thì đường huyết càng tăng nhanh. Vì vậy, các nhà dinh dưỡng khuyên chúng ta nên dùng những thức ăn nào có GI thấp để ngăn ngừa bệnh béo phì, bệnh tim mạch và tiểu đường loại II.
Trong thực tế, người ta thường pha trộn lẫn lộn các loại thức ăn có GI khác nhau trong các bữa ăn hằng ngày. Nhìn chung, các loại đường phức tạp như ngũ cốc, cơm gạo, bánh mì, pasta, spaghetti, và các loại rau cải xanh là những thực phẩm có chứa nhiều dưỡng chất và chất xơ.
Đối với những loại carbohydrate nầy, thì đường huyết sẽ tăng chậm hơn là nếu dùng các loại đường đơn giản quá tinh chế như đường cát trắng chẳng hạn.
Tuy vậy, cũng có một vài ngoại lệ, một số chất đường phức tạp như gạo trắng, white bread, bắp, khoai Tây lại có chỉ số đường huyết GI cao hơn một số đường đơn giản.
GI cũng có thể thay đổi tùy theo nhiều yếu tố khác nhau như: tùy theo kích thước các phân tử tạo nên sản phẩm, chẳng hạn như cereal càng nhuyễn, càng tinh chế thì có GI càng cao; tùy theo cơ cấu sinh hóa (thí dụ gạo Basmati chứa nhiều đường amylose nên có GI thấp hơn gạo trắng hạt dài, là thứ gạo chúng ta ăn hằng ngày); tùy theo cách biến chế nấu nướng (nhiệt độ làm thay đổi phân tử amidon), như khoai Tây nấu chín trong nồi có GI thấp hơn khoai Tây đút lò; khoai Tây luộc nghiền nhuyễn (mashed potatoes, flocon de pomme de terre) có GI cao hơn GI khoai Tây nguyên củ; carotte tươi có GI thấp hơn GI carotte nấu chín, tùy số lượng chất xơ hòa tan (soluble fiber), tùy theo tỉ lệ proteine, chất xơ và chất béo trong thực phẩm v.v…
Bởi những sự khác biệt kể trên cũng như sự thiếu tiêu chuẩn hóa trong việc đo lường một thực phẩm có glucide mà vấn đề chỉ số đường huyết GI vẫn còn là đề tài tranh cãi giữa các nhà khoa học với nhau. Họ đưa ra giả thuyết, một GI cao làm tăng đường huyết lên và làm trầm trọng hơn hiện tượng đề kháng insuline (résistance à l’insuline). Sự xáo trộn nầy sẽ dẫn tới hiện tượng bất dung nạp glucose (glucose intolérance).
Có người cho rằng một chế độ dinh dưỡng gồm có GI cao và nghèo chất xơ sẽ làm tăng sự đề kháng glucose và đề kháng insuline và từ đó dẫn đến bệnh diabetes type 2.
Mặc dù còn nhiều tranh cãi nhưng trong lãnh vực thể thao, ý niệm GI rất được các vận động viên quan tâm đến.
Trước ngày tranh tài, nên ăn những loại thực phẩm có GI thấp và GI trung bình, như pasta, spaghetti, chuối, yogurt để dự trữ năng lượng…
Ngày tranh tài, thì dùng những thức ăn dễ tiêu, có GI cao như các thỏi bánh kẹo ngọt có nhiều đường và vitamins.
Ngay sau khi kết thúc cuộc thi đấu, nên ăn những món có GI cao để bù đấp lại nhanh chóng năng lượng tiêu hao. Đây là một nguyên tắc thường được các người tham dự các cuộc chạy marathon áp dụng.
Tóm lại, một thức ăn có:
-GI thấp: nếu dưới 55
-GI trung bình: từ 56-tới 69
-GI cao: từ 70 trỡ lên
Tải lượng đường huyết (charge glycémique, glycemic load hay GL) là gì?
Ý niệm rất mới mẻ trong dinh dưỡng và được các nhà khoa học của Đại học Harvard đưa ra năm 1997.
GL bổ túc cho chỉ số đường huyết GI.
Tải lượng đường huyết GL có tác dụng ước định khả năng làm tăng đường huyết của một phần chuẩn (par portion, per serving) của một thức ăn nào đó.
Người ta tính GL bằng cách lấy GI nhân cho số lượng glucides (g) chứa trong phần chuẩn của sản phẩm, sau đó chia cho 100:
GL= GI x quantity glucides (g) per serving/100
Thí dụ: 1 serving cereal corn flake 30g có GI 82 và có chứa 25g glucide. GL của nó sẽ là 25 x 82/100 = 20,5.
Tóm lại, GI là thước đo chất lượng của glucides và GL là thước đo số lượng của glucide hiện diện trong một thức ăn.
Tải lượng GL của một phần chuẩn (per serving) thức ăn:
- GL thấp nếu dưới 10
- GL trung bình từ 11 đến 19
- GL cao nếu từ 20 trở lên
Tải lượng GL trong một ngày:
- thấp nếu dưới 80
- cao nếu từ 120 trở lên
Tiêu thụ thức ăn có GI cao mà đồng thời chứa ít chất xơ thì rất dễ làm xáo trộn đường huyết. Lâu ngày có thể làm tăng nguy cơ làm xuất hiện bệnh tiểu đường loại II và bệnh tim mạch.
Ý niệm tải lượng đường huyết GL được nhiều nhà dinh dưỡng ưa chuộng hơn ý niệm chỉ số đường huyết GI, vì lý do GL phản ảnh đồng thời số lượng và chất lượng của glucide trong một thức ăn.
Chỉ số đường huyết GI của một vài loại thực phẩm.
+ Thức ăn chuẩn là Glucose có GI = 100
Các loại thức ăn có GI thấp hơn 55:
Đậu nành - đậu phọng (15), đậu xanh (30), đậu trắng (38), đậu đỏ (40), sữa (30), yogurt (35), cam (40), táo pomme (39) , biscuit khô (55), bột lúa yến mạch oat (50), bún (35), gạo Basmati có nhiều amylose (55), carotte tươi (35), fructose hay đường trái cây (20), gạo lứt Brown rice(50) - đậu petit pois - khoai lang - bánh mì multigrain - pain au son (45), rau cải xanh - tomate - cà tím, ớt xanh - hành tỏi - nấm rơm (10), bưởi (22), cam (43), trái lê poire (36), khoai mỡ (51), xoài (55), trái pêche tươi (28), nước trái pomme (48), nho tươi (43).
+ Thức ăn có GI trung bình 56 - 69:
Càrem (59), nước cam lon (65), chuối (62), đu đủ (60), pain blé entier - wholemeal bread (69), trái kiwi (58), nho khô (64), đường cát sucrose - saccharose (65), khóm (66).
Thức ăn có GI cao trên 70:
Carotte chín (85), pain blanc (70), cơm trắng gạo hạt dài (trên 72) chứa ít amylose, gạo tấm broken rice (86), nếp (98), các loại cereal - cornflakes (80), mật ong ( 90), Pepsi Coca (70), riz instantané (90), maltose beer (110), khoai Tây chiên fries hoặc khoai đút lò (95), khoai nấu chín (70), dưa hấu (72), bí rợ (75), corn chip (72), bánh biscuit khô cracker (78), bánh mì baguette (95), Gạo thơm Jasmine long grain white rice(109) của Thái Lan và Việt Nam.
Cơm và bệnh tiểu đưòng loại 2
Cơm là chất bột đường và sau khi ăn được chuyển ra thành glucose để vào máu. Tùy theo loại gạo mà đường huyết glycemia tăng nhanh hay chậm. Mỗi một loại gạo có một chỉ số đường huyết GI khác nhau.
http://www.ajcn. org/cgi/content/ abstract/ 39/3/388
Gạo tinh chế và các loại gạo nào có hàm lượng amylose thấp thì có GI cao.
GI càng cao thì đường huyết càng tăng nhanh. GI từ 72 trở lên được xem là cao.
Gạo trắng hạt dài (72), gạo tấm broken rice (86), Instant rice (90), nếp (98), Gạo thơm jasmine hạt dài (109).
-Vậy nếu chúng ta đang có vấn đề bị chao đảo đường huyết thì nên chọn những loại thực phẩm nào có chỉ số đường huyết GI thấp mà dùng để đường huyết tăng chậm.
Ví dụ: Gạo Basmati (55), gạo lứt Brown rice (50)
*-Tránh ăn quá nhiều chất bột đường có GI cao trên 72 chẳng hạn như cơm trắng hạt dài, gạo chín nhanh, cơm tấm, xôi nếp, khoai tây đút lò, bánh mì baguette, carotte nấu chín, và đừng quên bia...
*Nếu đang trong giai đoạn tiền tiểu đường (prediabetes) hay đang bị tiểu đường loại II thì nên bớt ăn cơm là tốt nhất.
Một vài bệnh nhân tiểu đường là chổ quen biết có nói với tác giả là bác sĩ khuyên họ chỉ ăn mỗi bữa nửa chén cơm mà thôi và ăn những loại gạo có chị số đường huyết thấp.
Thay thế gạo trắng hạt dài có GI cao, bằng những loại gạo có GI thấp như gạo Ấn độ Moolgiri (GI 54), Basmati (GI 55), hoặc gạo Doongara clever rice (GI 54) của SunRice Australia chẳng hạn..
Đã có nhiều khảo cứu cho biết là gạo trắng hạt dài (long grain), là một trong nhiều nguyên nhân làm tăng đường huyết rất nhanh.
Katherine Harmon. White rice raises risk of type 2 diabetes
http://www.scientif icamerican. com/blog/ post.cfm? id=white- rice-raises- risk-of-type- 2-di-2010- 06-14
Tháng 6, 2010 vừa qua một khảo cứu của Harvard School of Public Health có cho biết việc thay thế gạo trắng hạt dài tinh chế bằng gạo lứt brown rice giúp làm giảm thiểu phần nào nguy cơ xuất hiện bệnh tiểu đường type 2.
Replacing White Rice With Brown Rice or Other Whole Grains May Reduce Diabetes Risk
http://www.scienced aily.com/ releases/ 2010/06/10061416 1349.htm
ScienceDaily (June 14, 2010) — In a new study, researchers from the Harvard School of Public Health (HSPH) have found that eating five or more servings of white rice per week was associated with an increased risk of type 2 diabetes. In contrast, eating two or more servings of brown rice per week was associated with a lower risk of the disease.
Tìm hiểu về gạo trắng hạt dài và gạo lứt
Gạo trắng hạt dài (Long grain white rice) có được từ gạo nâu hay gạo lứt brown rice, riz brun đã được chà xát để lấy các lớp cám bao bọc hạt gạo ra ngoài. Chính các lớp cám nầy là nơi tích tụ nhiều chất bổ dưỡng như vitamin B complex, inositol... Sự chà xát làm cho hạt gạo trắng ra rất hấp dẫn người tiêu thụ.
Gạo trắng ít bổ dưỡng, nhưng giữ được lâu dài vì nhờ không có cám nên lâu bị hôi hơn gạo lứt. Bên cạnh cái lợi cũng có cái hại là ăn gạo quá trắng trong thời gian lâu dài dễ bị bệnh phù thủng beriberi vì gạo thiếu các sinh tố B1 thiamin, riboflavin.. .Nhưng trong thực tế hằng ngày chúng ta nhờ ăn nhiều loại thực phẩm khác có vitamins kèm theo cơm nên vấn đề phù thủng không thấy xảy ra.
Tại hải ngoại, loại gạo chúng ta thường ăn mỗi ngày là gạo trắng hạt dài Hương Lài Jasmine của Thái Lan. Gạo Thái hạt dài, dẻo, thơm và để nguội vẫn ngon. Tuy nói vậy, nhưng đôi khi mua một bao gạo mới (new harvest) 18kg, đem về ăn chừng 1/3 bao thì gạo hết thơm, chắc là gạo đã bị trộn quá.
Lệ thường chúng ta thích ăn gạo trắng hơn gạo có màu sắc ngà ngà như gạo lứt chẳng qua cũng do thói quen ăn uống và tập quán xã hội mà thôi. Bạn thử tưởng tượng phản ứng của thực khách ra sao nếu họ được dọn món cơm gạo lứt ngay bữa tiệc cưới.
Tại Bắc Mỹ, theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ thì gạo trắng là gạo có 4% hạt nát. Khi gạo lứt được cho chạy qua máy xay, gạo trở nên nóng và bị vỡ ra. 4% hạt nát hay tấm (brisure, broken rice) là một tiêu chuẩn Hoa Kỳ (American standard). Gạo tấm thật sự phải là những phần mầm ở đầu hạt gạo. Những mãnh vỡ là những mãnh nâu, hoặc xậm màu và những hạt trắng hơn bình thường mà chúng ta có thể thấy trong các bao gạo.
Gạo nâu hay gạo lứt (riz brun, brown rice): Đây là loại gạo có được sau khi vỏ lúa bị chà lấy đi nhưng hạt gạo vẫn còn giữ mầm và vỏ cám. Nhờ còn đủ các vỏ cám và mầm nên gạo nâu được xem là loại gạo bổ nhất vì chứa nhiều chất xơ và nhiều vitamins ( B1, B3, B5, B6), cùng những chất như magnesium, manganese, zinc, Fe, Selenium, Phosphorus.. .
Các nhà dinh dưỡng đều khuyên chúng ta nên ăn gạo lứt. Lãnh vực thực phẩm thiên nhiên và Đông y cũng hết lời ca tụng tính năng trị bệnh của gạo lứt.
** Chú ý: Cơm trắng hạt dài, cơm tấm, nếp (xôi chè, bánh tét, bánh chưng, v.v...), bánh mì baguette, là những món mà đa số người VN mình đều ăn thường xuyên.
Đây cũng là những món có chỉ số đường huyết cao.
Nên tránh hoặc ăn thật ít nếu chúng ta đang có vấn đề tiểu đường.
Nên thay thế cơm trắng bằng những thức ăn có chỉ số GI thấp như bún, miến, rau cải luộc hoặc cơm gạo Basmati...
Kết luận
Người bị tiểu đường cần phải thay đổi nếp sống, kiêng cử đủ thứ, tránh các loại thức ăn ngọt, nước ngọt có gaz, bớt cơm , xôi chè, bánh trái chế biến từ bột tinh chế . Cần tránh thức ăn chứa nhiều mỡ dầu, ngoài ra cũng cần phải kiên trì vận động tập thể dục thường xuyên mỗi ngày.
Một chế độ dinh dưỡng thích nghi có nghĩa là ăn nhiều rau cải trái cây, đậu, hạt dẻ, thực phẩm làm từ bột thô không tinh chế (unrefined complex carbohydrate) , giảm việc ăn thịt đỏ (heo, bò) và thay thế bằng thịt trắng như thịt gà hay cá. Ngoài ra, cần nên tránh ăn nhiều dầu mỡ và muối.
Mấy năm trước đây, North Calorina University và Toronto University (Dr David Jenkins) đã thực hiện nhiều khảo cứu về dinh dưỡng nói lên sự ích lợi của việc ăn chay để ngừa bệnh tiểu đường và cholesterol trong máu. Tuy vậy, cũng cần nên biết là ăn chay phải cho đúng cách nếu không thì cũng vẫn bị bệnh tiểu đường và bệnh tim mạch như thường
Vậy tại sao một số thầy tu trong chùa cũng bị bệnh? Theo lời giải thích của tác giả Tâm Diệu trong trang Thư Viện Hoa Sen: Giải đáp ăn chay. Lý do:Thay đổi môi trường sống, cơ thể người Việt Nam thuộc nhóm biến dưỡng chậm (slow metabolizer) , thực phẩm quá dồi dào tại Hoa Kỳ, tuy là thức ăn chay nhưng lại sử dụng quá nhiều dầu để nấu, để chiên, ít hoạt động…
http://www.thuvienh oasen.org/ lienhoa402- 12.htm
Cho đến hôm nay thì phíaTây y vẫn khẳng định là bệnh tiểu đường không thể nào trị dứt được. Bệnh chỉ có thể được kiểm soát (control), nghĩa là giữ đường huyết ở một mức có thể chấp nhận được mà thôi, bằng cách theo đuổi một nếp sống lành mạnh như kiêng ăn, vận động, tập thể dục, giảm cân, bỏ thuốc lá, và mỗi ngày phải uống các loại thuốc Tây hạ đường huyết hoặc chích insulin suốt đời.
’Diabetes has no cure. Diabetes results from changes in the body's ability to absorb glucose (sugar). Once these changes happen, the body never fully regains its ability to process glucose.
However, people with diabetes can improve their glucose absorption through careful monitoring of what they eat and blood glucose levels. Physical activity may also benefit people with diabetes by increasing glucose absorption and reducing their weight and percentage of body fat. People with diabetes can develop a better sense of how food and activity affect them by regularly monitoring their glucose over time. Through these strategies, you can slow the progression of the disease and lower the risk of developing long-term diabetes-related problems. So while diabetes cannot be cured, it is a very manageable and livable chronic disease (CDC)’’
Tham khảo:
-Annie Ferland MSc, Paul Poirier MD, FRCPC,FACC. L’indice glycémique des aliments : Relation avec obésité et diabète de type 2. Le Clinicien décembre 2006
http://www.stacommu nications. com/journals/ leclinicien/ 2006/Clinicien- decembre06/ 063-Indiceglycem iquedesaliments. pdf
-Mendosa.com, Revised International Table of Glycemic index(GI) and Glycemic load (GL) values-2008
http://www.mendosa. com/gilists. htm
-Bs Nguyễn văn Đức. Tiểu đường loại 2. Yduocngaynay. com
http://www.yduocnga ynay.com/ 2-2NgVDuc_ TieuDuongLoai2. htm
-Nguyễn Thượng Chánh. Gạo Ta Gạo Tây
http://quanvan. net/index. php?view= story&subjectid= 26237
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, năm 2003 có lối 194 triệu người bị bệnh tiểu đường . Số nầy có thể sẽ tăng gấp hai vào năm 2025.
Tại Canada, ước lượng có vào khoảng 1.8 triệu người bị bệnh tiểu đường loại II, tương đương với 8% dân số trưởng thành.
Riêng tại Hoa Kỳ, có thể có đến 54 triệu người tuổi từ 45 đến 74 đang trong tình trạng tiền tiểu đường prediabetes và lối 8 triệu người bị bệnh diabetes thật sự.
Việt Nam hiện có trên 2 triệu bệnh nhân tiểu đường chiếm 4.4% dân số thành thị.
Trên 5% dân số trung Quốc tuổi từ 35 đến 74 bị bệnh tiểu đường.
“Trong báo JAMA số 20 ra ngày 27-5-2009, J.C.N. Chan và csv dựa vào các báo cáo bằng tiếng Anh từ tháng Giêng năm 1980 đến tháng Ba năm 2009 đã viết một bài tổng quan về tiểu đường loại 2 ở Á châu…
Theo các tác giả những yếu tố làm cho tiểu đường tăng nhanh ở Á châu là sự toàn cầu hóa với sự chuyển nhượng kỹ thuật và tăng trưởng kinh tế nhanh, sự thay đổi cách ăn và cách sống.
Người Á châu ít vận động hơn trước, bị căng thẳng và thiếu ngủ hơn, hút thuốc lá, ăn mỡ và uống nước ngọt nhiều hơn, ăn gạo xay trắng, gạo của Việt nam có chỉ số đường từ 86-109. Nhiều genes tiểu đường mới được tìm thấy ở người da trắng cũng được xác nhận ở người Á châu. (Theo Bs Nguyễn Văn Đích, Tiểu đường loại 2 ỏ Á châu, Ydượcngàynay).”
Tiền tiểu đường (Prediabetes) đi trước, tiểu đường (Diabetes) theo sau.
Trước khi bệnh tiểu đường được chẩn đoán thật sự, chúng ta phải trải qua một giai đoạn xáo trộn biến dưỡng trong nhiều năm với những triệu chứng như béo phì, rối loạn dung nạp glucose Impaired glucose tolerance, có nghĩa là glucose máu có khuynh hướng tăng hơn mức bình thường (5.8mmol/L hay 105 mg/dl) chút ít và nằm ở khoảng từ 6,1 đến 6,9 mmol/L (110-125mg/dl) . Bác sĩ gọi đây là tình trạng tiền tiểu đường (prediabetes) .
Danh từ Prediabetes là một chẩn đoán lâm sàng tương đối còn mới mẻ và được sử dụng lần đầu tiên năm 2002 bởi hai cơ quan The US Department of Health and Human Services và The American Diabetes Association, với mục đích chính là để nhấn mạnh vào việc phòng ngừa bệnh tiểu đường, đã không ngừng gia tăng trong dân chúng Mỹ.
Tùy theo test thử nghiệm mà Prediabetes còn được gọi bằng những tên khác nhau như tình trạng xáo trộn dung nạp glucose (impaired glucose tolerance IGT) hoặc tình trạng xáo trộn glucose lúc bụng đói (impaired fasting glucose IFG).
Prediabetes là giai đoạn dự báo của bệnh diabetes type II trong tương lai.
Làm sao biết được mình đã bị prediabetes?
Tình trạng prediabetes không có một biểu hiện lâm sàng rõ rệt nào hết nếu không thử máu để đo mức đường glucose của mình.
Tùy theo tình trạng của bệnh nhân mà bác sĩ cho thử loại test nào.
Có hai tests có thể được thực hiện:
+ Test 1: Test glucose lúc bụng đói (Fasting Plasma Glucose Test)
Test thực hiện lúc sáng sớm sau khi bạn phải nhịn ăn qua đêm ít nhất 8 tiếng đồng hồ trước đó.
- Nếu đường huyết glycemia đo được từ 110 tới 125mg/dl (6,1 – 6.94mmol/L) có nghĩa là có sự xáo trộn glucose lúc bụng đói (impaired fasting glucose). Đây là tình trạng prediabetes.
- Nếu đường máu từ 7mmol/L hay 126 mg/dl trở lên là bạn thật sự đã bị bệnh tiểu đường rồi.
+ Test 2: Test glucose sau khi ăn (Two hour oral glucose tolerance test hay glycémie provoquée)
Người ta cho bạn uống 75g glucose, bạn ngồi lại trong phòng chờ, và máu được rút ra để đo đường huyết sau đó 2 tiếng đồng hồ.
- Nếu hàm lượng glucose nằm ở giữa giới hạn 140 -199mg/dl (7.78 - 11.06mg/L) có nghĩa là có hiện tượng xáo trộn dung nạp glucose (impaired glucose tolerance). Đây là prediabetes.
** Nếu bị prediabetes rồi, thì mỗi năm bạn cần phải được test lại để theo dõi sự tiến triển của nó. Trong giai đoạn nầy, bác sĩ chỉ khuyên bệnh nhân nên ăn uống cho kỹ lưỡng và nhớ tập thể dục đều đặn mà thôi chớ chưa cần phải uống thuốc.
Tiểu đường loại 2 (Diabetes type 2)
Tiểu đường loại 2, là một bệnh mãn tính với biểu hiện chính là đường huyết rất cao vì tụy tạng tiết không đủ insulin cần thiết, hoặc đủ insulin nhưng nó lại bị đề kháng (insulin resistance) nên không còn hữu hiệu trong việc giúp hấp thụ đường glucose từ máu vào tế bào.
Mệt mỏi, mất cân, ăn nhiều (polyphagia) , uống nước nhiều (polydipsia) và đi tiểu nhiều (polyuria) là những dấu hiệu chính của bệnh tiểu đường.
Nguy hiểm nhất là bệnh có thể gây những biến chứng về mắt (rétinopathie diabétique) đưa đến mù lòa, làm suy thận (insuffisance rénale), hoặc dẫn đến các bệnh lý về tim mạch (cardiopathies) , về thần kinh (neuropathie diabétique) hoặc làm loét chân (ulcération des pieds) đưa đến việc cưa chân... Bệnh nhân chết vì các biến chứng của bệnh tiểu đường gây ra mà thường nhất là bị hư thận.
Theo Bs Nguyễn Văn Đức (Rosemead,Cali) : Có 4 test sau đây được sử dụng để định bệnh bệnh tiểu đường loại 2 :
1) Đường máu đo sau khi nhịn đói ít nhất 8 tiếng cao hơn 125mg/dl
2) Người bệnh có triệu chứng của tiểu đường và đường máu đo lúc không nhịn đói thấy cao trên 200mg/dl
3) Oral glucose tolerance test bất thường sau khi cho ăn đường glucose 1.75g/kg tối đa 75g, 2 tiếng sau đo máu, thấy vẫn cao hơn 200mg/dl
4) Trị số HbA1c (glycated hemoglobin) biểu thị lượng đường trung bình trong máu chúng ta trong vòng 3 tháng qua bằng hay cao hơn 6.5
Nếu nghi bệnh tiểu đường, chúng ta dùng một trong 4 cách định bệnh trên, và nếu thử lại lần nữa vẫn bất thường như vậy, người bệnh được xem là có bệnh tiểu đường.
(Bs Nguyễn Văn Đức. Tiểu đuờng loại 2. Yduocngaynay. com)
Có rất nhiều loại thuốc uống để kềm hãm đường huyết, và nếu trường hợp quá nặng thì cần phải chích insuline mỗi ngày. Đa số thuốc đều có phản ứng phụ (side effects) bất lợi. Tùy theo tình trạng sức khỏe của mỗi người cũng như sự hiện diện của biến chứng mà bác sĩ kê toa một loại thuốc nào đó, hoặc đổi thuốc khác, hoặc điều chỉnh liều lượng của món thuốc cho thích hợp hơn, v.v...
Có người cũng sử dụng thuốc thiên nhiên để giúp kéo đường huyết xuống phần nào, hư thật ra sao khó có ai biết được một cách chắc chắn hết.
-Bs Nguyễn Thượng Chánh & Ds Nguyễn Ngọc Lan.Có thể hạ đường huyết bằng thuốc thiên nhiên không?
http://www.yduocnga ynay.com/ 5-5NgTChanh_ HaDuongHuyet_ ThuocThienNhien. htm
Chỉ số đường huyết (Glycemic index, GI) là gì?
Từ lâu, chất bột đường glucide hay carbohydrate được xếp theo cấu trúc hóa học của chúng, nghĩa là theo chiều dài của chuỗi tinh bột amidon và theo tốc độ tiêu hóa và hấp thụ tại ruột non.
Tuy nhiên, người ta cũng ghi nhận rằng nhiều loại đường (mono, di, và polysaccharide) và thức ăn có glucides chẳng hạn như rau quả, ngũ cốc, sữa có thể làm tăng đường huyết một cách riêng biệt khác nhau.
Từ nhận xét trên, Gs David Jenkin, Canada là người đầu tiên đã nêu ra ý niệm chỉ số đường huyết vào năm 1981. Ý niệm nầy lần hồi đã thay thế ý niệm đường đơn giản (các loại đường tận cùng bằng OSE như fructose, saccharose,lactose, maltose…) và đường phức tạp (như cơm, gạo, ngũ cốc, rau, đậu, pasta…) đã lỗi thời.
Biết rằng đường đơn giản được chuyển thành glucose và được hấp thụ rất nhanh.Ngược lại đường phức tạp phải cần sự tác động của vài loại enzymes để chuyển ra glucose vì vậy có sự hấp thụ chậm hơn đường đơn giản…
Các nhà khoa học cho biết sự thặng dư glucose trong máu khiến tụy tạng phải tiết ra thường xuyên insulin và yếu tố insulin like growth factor one IGF-1.
Theo thời gian, tình trạng nầy sẽ đưa đến hiện tượng kháng insulin mà bệnh tiểu đường là hậu quả, và đồng thời cũng có thể có nhiều nguy cơ dẫn đến cancer (vú, ruột già, v.v...).
Chỉ số đường huyết là vận tốc chuyển hóa của một carbohydrate ra thành glucose để được hấp thụ vào máu.
Một thức ăn có GI càng cao thì đường huyết càng tăng nhanh. Vì vậy, các nhà dinh dưỡng khuyên chúng ta nên dùng những thức ăn nào có GI thấp để ngăn ngừa bệnh béo phì, bệnh tim mạch và tiểu đường loại II.
Trong thực tế, người ta thường pha trộn lẫn lộn các loại thức ăn có GI khác nhau trong các bữa ăn hằng ngày. Nhìn chung, các loại đường phức tạp như ngũ cốc, cơm gạo, bánh mì, pasta, spaghetti, và các loại rau cải xanh là những thực phẩm có chứa nhiều dưỡng chất và chất xơ.
Đối với những loại carbohydrate nầy, thì đường huyết sẽ tăng chậm hơn là nếu dùng các loại đường đơn giản quá tinh chế như đường cát trắng chẳng hạn.
Tuy vậy, cũng có một vài ngoại lệ, một số chất đường phức tạp như gạo trắng, white bread, bắp, khoai Tây lại có chỉ số đường huyết GI cao hơn một số đường đơn giản.
GI cũng có thể thay đổi tùy theo nhiều yếu tố khác nhau như: tùy theo kích thước các phân tử tạo nên sản phẩm, chẳng hạn như cereal càng nhuyễn, càng tinh chế thì có GI càng cao; tùy theo cơ cấu sinh hóa (thí dụ gạo Basmati chứa nhiều đường amylose nên có GI thấp hơn gạo trắng hạt dài, là thứ gạo chúng ta ăn hằng ngày); tùy theo cách biến chế nấu nướng (nhiệt độ làm thay đổi phân tử amidon), như khoai Tây nấu chín trong nồi có GI thấp hơn khoai Tây đút lò; khoai Tây luộc nghiền nhuyễn (mashed potatoes, flocon de pomme de terre) có GI cao hơn GI khoai Tây nguyên củ; carotte tươi có GI thấp hơn GI carotte nấu chín, tùy số lượng chất xơ hòa tan (soluble fiber), tùy theo tỉ lệ proteine, chất xơ và chất béo trong thực phẩm v.v…
Bởi những sự khác biệt kể trên cũng như sự thiếu tiêu chuẩn hóa trong việc đo lường một thực phẩm có glucide mà vấn đề chỉ số đường huyết GI vẫn còn là đề tài tranh cãi giữa các nhà khoa học với nhau. Họ đưa ra giả thuyết, một GI cao làm tăng đường huyết lên và làm trầm trọng hơn hiện tượng đề kháng insuline (résistance à l’insuline). Sự xáo trộn nầy sẽ dẫn tới hiện tượng bất dung nạp glucose (glucose intolérance).
Có người cho rằng một chế độ dinh dưỡng gồm có GI cao và nghèo chất xơ sẽ làm tăng sự đề kháng glucose và đề kháng insuline và từ đó dẫn đến bệnh diabetes type 2.
Mặc dù còn nhiều tranh cãi nhưng trong lãnh vực thể thao, ý niệm GI rất được các vận động viên quan tâm đến.
Trước ngày tranh tài, nên ăn những loại thực phẩm có GI thấp và GI trung bình, như pasta, spaghetti, chuối, yogurt để dự trữ năng lượng…
Ngày tranh tài, thì dùng những thức ăn dễ tiêu, có GI cao như các thỏi bánh kẹo ngọt có nhiều đường và vitamins.
Ngay sau khi kết thúc cuộc thi đấu, nên ăn những món có GI cao để bù đấp lại nhanh chóng năng lượng tiêu hao. Đây là một nguyên tắc thường được các người tham dự các cuộc chạy marathon áp dụng.
Tóm lại, một thức ăn có:
-GI thấp: nếu dưới 55
-GI trung bình: từ 56-tới 69
-GI cao: từ 70 trỡ lên
Tải lượng đường huyết (charge glycémique, glycemic load hay GL) là gì?
Ý niệm rất mới mẻ trong dinh dưỡng và được các nhà khoa học của Đại học Harvard đưa ra năm 1997.
GL bổ túc cho chỉ số đường huyết GI.
Tải lượng đường huyết GL có tác dụng ước định khả năng làm tăng đường huyết của một phần chuẩn (par portion, per serving) của một thức ăn nào đó.
Người ta tính GL bằng cách lấy GI nhân cho số lượng glucides (g) chứa trong phần chuẩn của sản phẩm, sau đó chia cho 100:
GL= GI x quantity glucides (g) per serving/100
Thí dụ: 1 serving cereal corn flake 30g có GI 82 và có chứa 25g glucide. GL của nó sẽ là 25 x 82/100 = 20,5.
Tóm lại, GI là thước đo chất lượng của glucides và GL là thước đo số lượng của glucide hiện diện trong một thức ăn.
Tải lượng GL của một phần chuẩn (per serving) thức ăn:
- GL thấp nếu dưới 10
- GL trung bình từ 11 đến 19
- GL cao nếu từ 20 trở lên
Tải lượng GL trong một ngày:
- thấp nếu dưới 80
- cao nếu từ 120 trở lên
Tiêu thụ thức ăn có GI cao mà đồng thời chứa ít chất xơ thì rất dễ làm xáo trộn đường huyết. Lâu ngày có thể làm tăng nguy cơ làm xuất hiện bệnh tiểu đường loại II và bệnh tim mạch.
Ý niệm tải lượng đường huyết GL được nhiều nhà dinh dưỡng ưa chuộng hơn ý niệm chỉ số đường huyết GI, vì lý do GL phản ảnh đồng thời số lượng và chất lượng của glucide trong một thức ăn.
Chỉ số đường huyết GI của một vài loại thực phẩm.
+ Thức ăn chuẩn là Glucose có GI = 100
Các loại thức ăn có GI thấp hơn 55:
Đậu nành - đậu phọng (15), đậu xanh (30), đậu trắng (38), đậu đỏ (40), sữa (30), yogurt (35), cam (40), táo pomme (39) , biscuit khô (55), bột lúa yến mạch oat (50), bún (35), gạo Basmati có nhiều amylose (55), carotte tươi (35), fructose hay đường trái cây (20), gạo lứt Brown rice(50) - đậu petit pois - khoai lang - bánh mì multigrain - pain au son (45), rau cải xanh - tomate - cà tím, ớt xanh - hành tỏi - nấm rơm (10), bưởi (22), cam (43), trái lê poire (36), khoai mỡ (51), xoài (55), trái pêche tươi (28), nước trái pomme (48), nho tươi (43).
+ Thức ăn có GI trung bình 56 - 69:
Càrem (59), nước cam lon (65), chuối (62), đu đủ (60), pain blé entier - wholemeal bread (69), trái kiwi (58), nho khô (64), đường cát sucrose - saccharose (65), khóm (66).
Thức ăn có GI cao trên 70:
Carotte chín (85), pain blanc (70), cơm trắng gạo hạt dài (trên 72) chứa ít amylose, gạo tấm broken rice (86), nếp (98), các loại cereal - cornflakes (80), mật ong ( 90), Pepsi Coca (70), riz instantané (90), maltose beer (110), khoai Tây chiên fries hoặc khoai đút lò (95), khoai nấu chín (70), dưa hấu (72), bí rợ (75), corn chip (72), bánh biscuit khô cracker (78), bánh mì baguette (95), Gạo thơm Jasmine long grain white rice(109) của Thái Lan và Việt Nam.
Cơm và bệnh tiểu đưòng loại 2
Cơm là chất bột đường và sau khi ăn được chuyển ra thành glucose để vào máu. Tùy theo loại gạo mà đường huyết glycemia tăng nhanh hay chậm. Mỗi một loại gạo có một chỉ số đường huyết GI khác nhau.
http://www.ajcn. org/cgi/content/ abstract/ 39/3/388
Gạo tinh chế và các loại gạo nào có hàm lượng amylose thấp thì có GI cao.
GI càng cao thì đường huyết càng tăng nhanh. GI từ 72 trở lên được xem là cao.
Gạo trắng hạt dài (72), gạo tấm broken rice (86), Instant rice (90), nếp (98), Gạo thơm jasmine hạt dài (109).
-Vậy nếu chúng ta đang có vấn đề bị chao đảo đường huyết thì nên chọn những loại thực phẩm nào có chỉ số đường huyết GI thấp mà dùng để đường huyết tăng chậm.
Ví dụ: Gạo Basmati (55), gạo lứt Brown rice (50)
*-Tránh ăn quá nhiều chất bột đường có GI cao trên 72 chẳng hạn như cơm trắng hạt dài, gạo chín nhanh, cơm tấm, xôi nếp, khoai tây đút lò, bánh mì baguette, carotte nấu chín, và đừng quên bia...
*Nếu đang trong giai đoạn tiền tiểu đường (prediabetes) hay đang bị tiểu đường loại II thì nên bớt ăn cơm là tốt nhất.
Một vài bệnh nhân tiểu đường là chổ quen biết có nói với tác giả là bác sĩ khuyên họ chỉ ăn mỗi bữa nửa chén cơm mà thôi và ăn những loại gạo có chị số đường huyết thấp.
Thay thế gạo trắng hạt dài có GI cao, bằng những loại gạo có GI thấp như gạo Ấn độ Moolgiri (GI 54), Basmati (GI 55), hoặc gạo Doongara clever rice (GI 54) của SunRice Australia chẳng hạn..
Đã có nhiều khảo cứu cho biết là gạo trắng hạt dài (long grain), là một trong nhiều nguyên nhân làm tăng đường huyết rất nhanh.
Katherine Harmon. White rice raises risk of type 2 diabetes
http://www.scientif icamerican. com/blog/ post.cfm? id=white- rice-raises- risk-of-type- 2-di-2010- 06-14
Tháng 6, 2010 vừa qua một khảo cứu của Harvard School of Public Health có cho biết việc thay thế gạo trắng hạt dài tinh chế bằng gạo lứt brown rice giúp làm giảm thiểu phần nào nguy cơ xuất hiện bệnh tiểu đường type 2.
Replacing White Rice With Brown Rice or Other Whole Grains May Reduce Diabetes Risk
http://www.scienced aily.com/ releases/ 2010/06/10061416 1349.htm
ScienceDaily (June 14, 2010) — In a new study, researchers from the Harvard School of Public Health (HSPH) have found that eating five or more servings of white rice per week was associated with an increased risk of type 2 diabetes. In contrast, eating two or more servings of brown rice per week was associated with a lower risk of the disease.
Tìm hiểu về gạo trắng hạt dài và gạo lứt
Gạo trắng hạt dài (Long grain white rice) có được từ gạo nâu hay gạo lứt brown rice, riz brun đã được chà xát để lấy các lớp cám bao bọc hạt gạo ra ngoài. Chính các lớp cám nầy là nơi tích tụ nhiều chất bổ dưỡng như vitamin B complex, inositol... Sự chà xát làm cho hạt gạo trắng ra rất hấp dẫn người tiêu thụ.
Gạo trắng ít bổ dưỡng, nhưng giữ được lâu dài vì nhờ không có cám nên lâu bị hôi hơn gạo lứt. Bên cạnh cái lợi cũng có cái hại là ăn gạo quá trắng trong thời gian lâu dài dễ bị bệnh phù thủng beriberi vì gạo thiếu các sinh tố B1 thiamin, riboflavin.. .Nhưng trong thực tế hằng ngày chúng ta nhờ ăn nhiều loại thực phẩm khác có vitamins kèm theo cơm nên vấn đề phù thủng không thấy xảy ra.
Tại hải ngoại, loại gạo chúng ta thường ăn mỗi ngày là gạo trắng hạt dài Hương Lài Jasmine của Thái Lan. Gạo Thái hạt dài, dẻo, thơm và để nguội vẫn ngon. Tuy nói vậy, nhưng đôi khi mua một bao gạo mới (new harvest) 18kg, đem về ăn chừng 1/3 bao thì gạo hết thơm, chắc là gạo đã bị trộn quá.
Lệ thường chúng ta thích ăn gạo trắng hơn gạo có màu sắc ngà ngà như gạo lứt chẳng qua cũng do thói quen ăn uống và tập quán xã hội mà thôi. Bạn thử tưởng tượng phản ứng của thực khách ra sao nếu họ được dọn món cơm gạo lứt ngay bữa tiệc cưới.
Tại Bắc Mỹ, theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ thì gạo trắng là gạo có 4% hạt nát. Khi gạo lứt được cho chạy qua máy xay, gạo trở nên nóng và bị vỡ ra. 4% hạt nát hay tấm (brisure, broken rice) là một tiêu chuẩn Hoa Kỳ (American standard). Gạo tấm thật sự phải là những phần mầm ở đầu hạt gạo. Những mãnh vỡ là những mãnh nâu, hoặc xậm màu và những hạt trắng hơn bình thường mà chúng ta có thể thấy trong các bao gạo.
Gạo nâu hay gạo lứt (riz brun, brown rice): Đây là loại gạo có được sau khi vỏ lúa bị chà lấy đi nhưng hạt gạo vẫn còn giữ mầm và vỏ cám. Nhờ còn đủ các vỏ cám và mầm nên gạo nâu được xem là loại gạo bổ nhất vì chứa nhiều chất xơ và nhiều vitamins ( B1, B3, B5, B6), cùng những chất như magnesium, manganese, zinc, Fe, Selenium, Phosphorus.. .
Các nhà dinh dưỡng đều khuyên chúng ta nên ăn gạo lứt. Lãnh vực thực phẩm thiên nhiên và Đông y cũng hết lời ca tụng tính năng trị bệnh của gạo lứt.
** Chú ý: Cơm trắng hạt dài, cơm tấm, nếp (xôi chè, bánh tét, bánh chưng, v.v...), bánh mì baguette, là những món mà đa số người VN mình đều ăn thường xuyên.
Đây cũng là những món có chỉ số đường huyết cao.
Nên tránh hoặc ăn thật ít nếu chúng ta đang có vấn đề tiểu đường.
Nên thay thế cơm trắng bằng những thức ăn có chỉ số GI thấp như bún, miến, rau cải luộc hoặc cơm gạo Basmati...
Kết luận
Người bị tiểu đường cần phải thay đổi nếp sống, kiêng cử đủ thứ, tránh các loại thức ăn ngọt, nước ngọt có gaz, bớt cơm , xôi chè, bánh trái chế biến từ bột tinh chế . Cần tránh thức ăn chứa nhiều mỡ dầu, ngoài ra cũng cần phải kiên trì vận động tập thể dục thường xuyên mỗi ngày.
Một chế độ dinh dưỡng thích nghi có nghĩa là ăn nhiều rau cải trái cây, đậu, hạt dẻ, thực phẩm làm từ bột thô không tinh chế (unrefined complex carbohydrate) , giảm việc ăn thịt đỏ (heo, bò) và thay thế bằng thịt trắng như thịt gà hay cá. Ngoài ra, cần nên tránh ăn nhiều dầu mỡ và muối.
Mấy năm trước đây, North Calorina University và Toronto University (Dr David Jenkins) đã thực hiện nhiều khảo cứu về dinh dưỡng nói lên sự ích lợi của việc ăn chay để ngừa bệnh tiểu đường và cholesterol trong máu. Tuy vậy, cũng cần nên biết là ăn chay phải cho đúng cách nếu không thì cũng vẫn bị bệnh tiểu đường và bệnh tim mạch như thường
Vậy tại sao một số thầy tu trong chùa cũng bị bệnh? Theo lời giải thích của tác giả Tâm Diệu trong trang Thư Viện Hoa Sen: Giải đáp ăn chay. Lý do:Thay đổi môi trường sống, cơ thể người Việt Nam thuộc nhóm biến dưỡng chậm (slow metabolizer) , thực phẩm quá dồi dào tại Hoa Kỳ, tuy là thức ăn chay nhưng lại sử dụng quá nhiều dầu để nấu, để chiên, ít hoạt động…
http://www.thuvienh oasen.org/ lienhoa402- 12.htm
Cho đến hôm nay thì phíaTây y vẫn khẳng định là bệnh tiểu đường không thể nào trị dứt được. Bệnh chỉ có thể được kiểm soát (control), nghĩa là giữ đường huyết ở một mức có thể chấp nhận được mà thôi, bằng cách theo đuổi một nếp sống lành mạnh như kiêng ăn, vận động, tập thể dục, giảm cân, bỏ thuốc lá, và mỗi ngày phải uống các loại thuốc Tây hạ đường huyết hoặc chích insulin suốt đời.
’Diabetes has no cure. Diabetes results from changes in the body's ability to absorb glucose (sugar). Once these changes happen, the body never fully regains its ability to process glucose.
However, people with diabetes can improve their glucose absorption through careful monitoring of what they eat and blood glucose levels. Physical activity may also benefit people with diabetes by increasing glucose absorption and reducing their weight and percentage of body fat. People with diabetes can develop a better sense of how food and activity affect them by regularly monitoring their glucose over time. Through these strategies, you can slow the progression of the disease and lower the risk of developing long-term diabetes-related problems. So while diabetes cannot be cured, it is a very manageable and livable chronic disease (CDC)’’
Tham khảo:
-Annie Ferland MSc, Paul Poirier MD, FRCPC,FACC. L’indice glycémique des aliments : Relation avec obésité et diabète de type 2. Le Clinicien décembre 2006
http://www.stacommu nications. com/journals/ leclinicien/ 2006/Clinicien- decembre06/ 063-Indiceglycem iquedesaliments. pdf
-Mendosa.com, Revised International Table of Glycemic index(GI) and Glycemic load (GL) values-2008
http://www.mendosa. com/gilists. htm
-Bs Nguyễn văn Đức. Tiểu đường loại 2. Yduocngaynay. com
http://www.yduocnga ynay.com/ 2-2NgVDuc_ TieuDuongLoai2. htm
-Nguyễn Thượng Chánh. Gạo Ta Gạo Tây
http://quanvan. net/index. php?view= story&subjectid= 26237
No comments:
Post a Comment