Sunday, May 29, 2011

Phi con --- Trịnh Hội VOA

  Trịnh Hội

Mới thấy đó mà đã đến ngày con thôi nôi. Thời gian qua mau thật. Mới ngày nào ba còn ẵm con trong tay lần đầu tiên trong nhà thương, tập cho con bú sữa bình. Khi hai mắt con vẫn còn nhắm nghiền. Khi người con vẫn được y tá bao chặt trong tấm khăn để con tưởng là con vẫn còn nằm trong bụng mẹ.

Vậy mà 365 ngày đã vụt qua. Để hôm nay con đã chập chững biết đi. Biết cười khi ba làm trò. Biết khóc đòi ngoại cõng. Để mẹ con phải bỏ ra cả tiền lẫn sức lo cho con có một ngày sinh nhật thật linh đình bên cạnh gia đình và các bạn bè, anh em quen thuộc. Mặc dù ba nghĩ con chẳng hề bận tâm!

Con có biết không Phi. Những tháng ngày trước khi con ra đời, điều mà ba mong ước nhất, điều mà ba luôn cầu nguyện mỗi khi đứng trước bàn thờ Phật là cầu mong sao cho con và mẹ con luôn được vuông tròn. Con sẽ ra đời có đầy đủ chân tay, thân trí khỏe mạnh. Ba chỉ cần có thế. Cho đến bây giờ và mãi mãi về sau ba cũng chỉ cần có thế.

Ba sẽ không cần con lớn lên phải trở thành một tài năng xuất chúng, một tiểu gia hay đại gia thành công vượt bực. Ba cũng không cần con phải trở thành một học sinh giỏi, một đứa con ngoan, ba mẹ nói gì con cũng nghe theo. Vì ba nghĩ đối với bất cứ một sự liên hệ nào, trong gia đình hay bên ngoài xã hội, phải có sự đụng chạm, phải có sự cân bằng, thỏa thuận tương tác thường xuyên với nhau thì con người, cả hai bên mới có cơ hội để thăng tiến. Còn không thì chúng ta chỉ dậm chân tại chỗ. Chỉ thấy được cái hay của những người đi trước nhưng không thấy được những bước họ chưa đi.

Quan trọng hơn, một trong hai bên sẽ không cảm thấy hoàn toàn hạnh phúc với những gì họ đang có. Và ba nghĩ đây mới là điều mà ba luôn mong muốn ở nơi con. Thấy con được hạnh phúc với cuộc sống của riêng mình, với những quyết định của riêng mình, bên cạnh những người mà con yêu mến. Bất kể đó là ai. Giàu sang hay bần hàn. Việt Nam hay ngoại quốc. Trai hay gái.

Ba không đặt nhiều kỳ vọng, đòi hỏi nhiều ở nơi con vì trên thực tế, con không phải là người đã quyết định bước vào cõi đời lắm cảnh trái ngang này. Chính ba mẹ là người đã quyết định chọn có con và vì vậy lẽ đương nhiên ba mẹ phải có trách nhiệm nuôi nấng cho đến lúc con trưởng thành. Việc báo hiếu vì thế không phải là điều mà con cần phải bận tâm sau này. Vì xét cho cùng nó không thể và không phải là một trách nhiệm. Nếu có được, nó chỉ là một sự may mắn.

Vả lại ba cũng cần phải thú nhận một điều là những tiếng cười của con, những lúc ba được ôm con vào lòng là những lúc ba cảm thấy hạnh phúc nhất. Con đã cho ba có một cảm giác mà trước đó ba chưa hề có. Mặc dù trước đó ba đã có con.

Hơn mười năm về trước ba đã từng nhận anh Minh của con đem về nuôi. Sau này ba lại có thêm hai người con kế mà cho đến nay ba vẫn tin tưởng là tình thương mà ba dành cho tất cả các con là bằng nhau.

Tuy nhiên cũng có thể vì trong năm vừa qua ba đã dành nhiều thời gian cho con hơn, ba lại biết con rõ hơn từ lúc con… chưa ra đời, nên vì vậy cái cảm giác mà con cho ba cũng có một phần nào đó khác biệt. Ba cảm ơn con về điều đó.

Hai người khác mà ba cũng cần phải cảm ơn đã có công (hay nói thật ra là có nhiều công hơn cả ba) nuôi con cho đến ngày hôm nay là ngoại con. Và mẹ con. Nếu không có ngoại con giúp trông nuôi từ những ngày con vừa mới lọt lòng thì thật tình mà nói ba chẳng biết con sẽ ra sao!

Ba thấy thì ra câu ông bà mình thường nói “Tiến về nội, thối về ngoại” cũng có lý do của nó.

Riêng mẹ con thì không cần phải nhắc lại chúng ta cũng biết là mẹ đã hy sinh rất nhiều cho con. Vì vậy trong tương lai về sau cho dù bất cứ điều gì xảy ra ba vẫn mong là con sẽ hiểu rõ được điều này.

Như nhiều bà mẹ khác, mẹ con đã mang con nặng gần 4kg và chịu đau trên 10 tiếng trước khi con cất tiếng khóc đầu tiên chào đời. Nhưng không như phần lớn những bà mẹ khác, từ ngày con ra đời, không phải ngày nào ba cũng có cơ hội ở gần mẹ con để giúp đở, nuôi nấng con. Vì việc làm, vì cơm gạo áo tiền, vì những công việc xã hội mà ba đang đảm nhận, ba đã không thể chia xẻ được gánh nặng cùng mẹ con trong công việc hằng ngày như mong muốn. Trong năm vừa qua và ba e sợ rằng trong cả tương lai.

Vì vậy ba chỉ mong là trong những năm tháng kế tiếp mãi cho đến ngày con khôn lớn, con sẽ thông cảm, cố hiểu dùm cho ba. Vì việc công có lúc ba sẽ lơ đãng chuyện nhà. Vì hoàn cảnh ba sẽ không thể luôn ở mãi bên cạnh con, từng ngày, từng phút.

Nhưng xin con nhớ rằng ba vẫn luôn nhớ đến con. Vẫn luôn nghĩ về con cho dù ba có ở bất kỳ góc bể chân trời nào. Hay vì bất cứ lý do gì ba không thể sống gần con.

Ba sẽ cố gắng sống và làm việc để trong tương lai con cảm thấy hãnh diện ba là ba của con.

Riêng hôm nay bước sang năm thứ hai, ba chúc Phi con của ba vẫn như mọi ngày, mau ăn, chóng lớn.

Con đồng ý chứ?

Ba của con.

Trịnh Hội Blog - VOA








-

-

 

 Me M
Internet 2012/06/06
Tác giả: Lệ Hoa Wilson
Tác giả là một Phật tử, pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, sinh năm 1940 tại Cần Thơ. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là “Có Tội Hay Không Có Tội”, tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Ky. “Hai đứa gặp nhau khi ông xã làm việc tại bệnh viện Hải Quân Hoa Kỳ, núi Non Nước Đà Nẵng. Cưới nhau: 1972, hiện có 5 con. Tới Mỹ năm 1975. Từ 1985, hai vợ chồng mở v/p Di Trú và Thuế Vụ tại Long Beach.”
Sau đây là bài viết của bà.

Bất cứ người con gái nào lớn lên, đến tuổi trưởng thành cũng đều mơ ước một ngày bước lên xe hoa để làm vợ.
Có những người đầy đủ phước đức, sanh ra, lớn lên, lấy chồng, làm vợ, làm mẹ, làm bà, sống trong danh dự, chết trong thương yêu. Có những người thiếu kém nghiệp lành, sanh ra, lớn lên, lấy chồng, làm vợ, làm mẹ, làm bà, sống trong đau khổ, chết trong cô đơn.
Dù kém nghiệp lành hay đầy đủ phước đức thì những người đàn bà nầy đã hạnh phúc với hay khổ đau do một ông chồng ViệtNam nên được xã hội ViệtNam trân trọng tặng cho cái danh dự “bà vợ”.
Tôi đã lấy chồng, làm vợ, làm mẹ, làm bà nhưng tôi đã hạnh phúc hay đau khổ với một ông chồng người Mỹ nên được xã hội Việt Nam khinh khi ban cho danh từ “Me Mỹ” !
Ở cùng một hoàn cảnh, ăn mặc cùng một kiểu, nói bá láp cùng một câu, phạm cùng một lầm lỗi nhưng “bà vợ” thì được cảm thông và tha thứ vì bà tuy nói ác mà tốt bụng, tuy ăn mặc hở hang mà tánh rất đàng hoàng, tuy có ra ngoài vòng lễ giáo một chút nhưng hoàn cảnh thật đáng thương v.v.., còn “me Mỹ” thì sẽ nhận đựợc một bản án nặng nề, không hồi tố, không biện minh, không chống đỡ.
Một người khách đến văn phòng tôi làm giấy tờ bảo lãnh thân nhân.
Trong khi tôi điền đơn ông vui miệng hỏi chớ cô ở Mỹ bao lâu rồi mà giỏi vậy và có đứa con nào chưa? Tôi trả lời cháu ở Mỹ đã 19 năm (thời điểm 1994) và có được năm con. Chồng cháu người Mỹ.
Ông khách nhìn tôi kinh ngạc và hạ một câu: “ Cô Lấy Mỹ mà cũng đẻ dữ vậy hả!”.
Âm thanh khinh bạc trong câu Lấy Mỹ của người khách đáng tuổi cha chú làm tôi hơi khựng lại và trong một phút vô minh trong óc tôi cố nghỉ ra một câu gì tương xứng với hoàn cảnh của ông để nói lại cho trái tim mình đở rướm máu, nhưng đức Phật Quan Âm đã mau hơn cái phút vô minh đó nên tôi chỉ từ tốn trả lời: “Dạ vợ chồng cháu định có bảy đứa nhưng ở đây nuôi con cực quá nên dừng lại ở năm đứa.”.
Chắc ông khách cảm nhận được sự lỡ lời của mình và thái độ từ hoà của tôi nên có vẻ bẽn lẽn.
Ngày hôm đó tôi được mặc cái áo Lấy Mỹ mà đẻ nhiều con !.
Lại có một cô đáng tuổi em út nhờ tôi kêu điện thoại lên tòa án dàn xếp một vụ hiểu lầm rắc rối do cô gây ra. Mọi việc ổn thỏa rồi cô cám ơn tôi và nhận xét: “ chị lấy Mỹ mà cũng biết làm nghề nầy nữa há.” .
Có nghiã là nghề văn phòng phải do mấy bà vợ đảm nhận mới phải. Mấy bà nầy ngày xưa bên ViêtNam là người có học, nay tiếp tục văn phòng là lý đương nhiên. Còn chị lấy Mỹ sao lại ngồi đây ?, sao dám chen chân trong vòng danh lợi nầy ? Sao lại ăn nói nhẹ nhàng giúp đở đồng hương?
Đáng lẻ chị phải tiếp tục bán bar, bồi phòng hay cái gì hạ tiện một chút, ăn nói có một chút chữi thề, thái độ có một chút sắc sảo thì mới hợp lý chớ .
Tôi nhìn người đồng hương hiền lành ít học và nhẹ nhàng nói :” Nghề nào cũng vậy thôi em à. Nghề nào làm ra tiền để nuôi con thì bà mẹ nào cũng làm hết, bất kể sang hèn.”. Ngày hôm đó tôi được mặc chiếc áo Lấy Mỹ mà biết làm nghề văn phòng! .
Một hôm có một ông lạ hoắc ở tận Canada, do một người mách bảo, tới văn phòng tôi để xin băng giảng kinh Phật. Lúc đó chưa có CD, băng kinh còn rất hiếm. Sau khi chuyện vãn tôi tặng ông băng của thầy Thanh Từ, sư cô Như Thủy v..v.., ông vui mừng cám ơn rối rít:
Không ngờ cô lấy Mỹ mà cũng biết tu hành dữ vậy!”. Tôi mĩm cười chọc ông: “ Vậy là ông nói tôi đi sai đường phải không? Đáng lẻ tôi đi theo quỷ Sa Tăng mới đúng. Đáng lẽ tôi phải vào trà đình, tửu quán, tay cầm ly rượu, tay cầm điếu thuốc thì mới đúng điệu me Mỹ chớ me Mỹ gì mà sờ mó kinh sách, thật là ốt dột ông há”. Ông khách biết mình nói quá lố vội xin lỗi, tôi lại mỉm cười.
Vậy là tôi lại được mặc thêm một chiếc áo Lấy Mỹ mà cũng biết tu hành!.
Bạn tôi, sau khi cằn nhằn, phê phán, chê trách con dâu và bà xuôi gia đủ điều liền hạ một câu kết luận: “ thằng con tôi là thằng chúa ngục. Không biết sao mà nó mê con quỉ nầy dữ vậy? Má nó là cái thứ lấy Mỹ thì làm sao biết dạy con?!” Thêm một chiếc áo nữa Lấy Mỹ không biết dạy con!
Tôi thường hay thắc mắc tự hỏi không biết mình làm vợ Mỹ thì có khác biệt gì với mấy người làm vợ ViệtNam ? và người chồng Mỹ của mình có khác biệt gì với người chồng ViệtNam?
Khi vui tôi cười, khi buồn tôi khóc. Khi nấu ăn bị đứt tay, máu cũng đỏ thắm. Khi nhìn đồng bào lầm than trong đói nghèo, lụt lội thì ruột tôi cũng mềm. Khi chồng thất nghiệp hay gặp cảnh gian nan thì tôi cũng đở nâng, an ủi. Khi chồng vụng dại, lỡ lầm thì tôi cũng gây gổ, giận hờn.
Khi chồng tôi cầm bảng học bạ đầy chữ A của các con thì mặt mày cũng tươi vui hớn hở. Khi bị trường kêu lên mắng vốn thì cũng buồn bã lo âu. Khi con nhỏ ốm đau thì cũng thức trắng đêm lo thang thuốc. Khi con nên vợ nên chồng thì cũng hãnh diện, mừng vui. Buổi sáng hôn nhau từ giã hăng hái đi làm nuôi con. Buổi tối hôn nhau cám ơn một ngày bình an, hạnh phúc.
Chúng tôi cũng có những luật lệ riêng của gia đình. Khi các con còn nhỏ ngồi ăn cơm chung với cha mẹ, ăn xong trước rồi muốn ra khỏi bàn ăn phải xin phép. Khi cha nói NO rồi thì không được nhõng nhẻo qua hỏi mẹ. Khi cha mẹ đang coi TV thì không được tự động đổi đài khác.
Chồng tôi người Mỹ mà lại tin vào chánh sách ‘thương con cho roi cho vọt’ của VN, nhưng ảnh không đánh con trong sự giận dữ. Ảnh bắt chúng nằm sấp xuống ghế, nói cho chúng biết chúng đã phạm lỗi gì và hình phạt ra sao (một roi chổi lông gà hay không có TV một tuần hay 8 giờ tối phải vô phòng không được hội họp với gia đình v..v..). Tôi không bao giờ xen vào binh vực cải cọ lúc ảnh răn dạy các con dù đôi khi cây roi hạ xuống một tiếng chát, thằng nhỏ rú lên, lòng mẹ nghẹn ngào. Sau mỗi hình phạt, tôi dẫn các con đi rửa mặt, cho chúng ly cà rem, cái bánh ngọt rồi dẫn chúng vào phòng xin lỗi cha.
Các con ơi, dù cha không phải lúc nào cũng đúng khi răn dạy các con, nhưng hãy nhìn mỗi buổi sáng, dù nắng dù mưa, dù mạnh giỏi dù khó chịu, cha chúng con vẫn ra xe đi làm. Cái lap top, cái cell phone, cái phòng ngủ, cuốn sách, áo quần, sách vở,máy sưởi, nước nóng, sự hiểu biết, sự tiện nghi, sự trưởng thành…trăm ngàn thứ trong cuộc đời con đang hưởng thụ đều đổ lên hai vai của người cha đó thì đôi khi một vài hiểu lầm có đáng là bao. Vợ chồng tôi không hoàn toàn nhưng đã cố gắng dạy con the best we know.
Tôi được người đời tặng cho nhiều chiếc áo khác nhau nhưng ít có chiếc nào nhuộm lòng Từ Bi và Hiểu Biết. Tôi lẳng lặng nhận những chiếc áo khắc nghiệt đó, không oán trách cũng chẳng hạ mình. Tôi không có gì phải cúi mặt khi nói cho người đối diện biết chồng tôi người Mỹ. Trái lại những lời khinh bạc, những dè bỉu trước mặt hay sau lưng đó đã giúp tôi tăng thêm phần nhẫn nhịn, thứ tha và thông cảm hơn đối với những chúng sanh bạc phước khác. Và tôi tin rằng vì thế tôi hoá giải được một phần những oan khiên, nghiệp chướng của kiếp nầy cũng như của những kiếp trước. Quả nhiên phiền não là bồ đề và cuộc đời thì không có gì là tuyệt đối hết. Cũng có người thương tôi. Tôi xin gởi lời cám ơn với tất cả trái tim chân thành đến các đồng hương tại Long Beach đã từng dùng qua các dịch vụ của văn phòng tôi và đã thương mến tôi như một con người, đã đối xử với tôi như một “bà vợ”.
Tôi đóng cửa văn phòng lái xe thẳng ra nghĩa trang thăm mộ con. Chúng tôi mất một đứa con trai trong một tai nạn xe hơi lúc cháu vừa 16 tuổi. Từ xa tôi thấy một người ngồi bên cạnh mộ, hai đầu gối cong lên, hai tay ôm lấy đầu gục xuống chân. Tôi lại gần. Té ra là Ron, chồng tôi. Tôi quì xuống trước mặt anh, hai tay nâng đầu anh lên, để trán tôi cụng vào trán anh. Anh nhìn tôi thì thầm : “ Honey, help me, please help me. I can not go through our son’s loss without your love and your support.” ( em ơi, giúp anh, em hãy giúp anh. Anh không thể nào vượt qua cơn đau khổ mất con nầy mà không có tình yêu và sự chia xẻ của em ). Tôi ngồi xuống bên anh, bên cạnh mộ đứa con yêu dấu.
Tôi để đầu anh dựa vào má tôi và dịu dàng nói : “ Em yêu anh. Chúng ta sẽ cùng nhau vượt qua nổi đau khổ nầy !”
Một giọt nước mắt của anh thấm vào miệng tôi.
Giọt nước mắt của người chồng Mỹ với người vợ Việt, của người cha Mỹ khóc thương cho đứa con trai vắn số cũng mặn như giọt nuớc mắt của bất cứ người chồng người cha nào khác.
Có khác gì đâu.
Vô thường!

No comments:

Post a Comment